Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2015

Một vài ý kiến về dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt



Các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại Chương XXIV Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây viết tắt 
là BLHS), gồm 13 tội được quy định từ Điều 133 đến Điều 145. Căn cứ vào tính chất của mục đích phạm tội, khoa học luật hình sự chia các tội xâm phạm sở hữu thành (1) nhóm các tội có mục đích tư lợi (bao gồm 10 tội từ Điều 133 đến Điều 142 BLHS) và (2) nhóm các tội không có mục đích tư lợi (từ Điều 143 đến Điều 145 BLHS). Đối với nhóm các tội có mục đích tư lợi, dựa vào dấu hiệu chiếm đoạt, chúng lại được chia nhỏ ra thành (a) nhóm có tính chiếm đoạt (bao gồm 8 tội từ Điều 133 đến Điều 140) và (b) nhóm không có tính chiếm đoạt (gồm các Điều 141, 142).[1] Đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, do trong từng điều luật quy định chưa chặt chẽ nên bên cạnh việc thiếu thống nhất khi xác định dấu hiệu hành vi của từng tội, thực tiễn còn có những quan điểm khác nhau trong việc xác định dấu hiệu chiếm đoạt đối với các tội này. Vì vậy, trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích làm rõ dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và nêu lên những quan điểm nhận thức khác nhau trong thực tiễn áp dụng.
 1. Một số vấn đề lý luận về dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
 1.1. Khái quát về một số dấu hiệu đặc trưng trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt - Về khách thể của tội phạm: Theo khoa học luật hình sự, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.[2] Nghiên cứu quy định của BLHS đối với các tội từ Điều 133 đến Điều 140 và thực tiễn áp dụng, các tội từ Điều 133 đến Điều 136 BLHS có khách thể là quan hệ sở hữu và quyền nhân thân; đối với các tội từ Điều 137 đến Điều 140 BLHS có khách thể chỉ là quan hệ sở hữu. Về đối tượng tác động thuộc khách thể của tội phạm, các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có đối tượng tác động là tài sản thuộc sở hữu của người khác (không phải là của người phạm tội) và chúng còn nằm trong sự chiếm hữu, quản lí của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. - Về hành vi khách quan thuộc mặt khách quan của tội phạm: Hành vi phạm tội được hiểu là hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định chịu sự kiểm soát, điều khiển bởi ý thức, ý chí của người phạm tội.[3] Hành vi phạm tội có 02 hình thức thể hiện là hành động và không hành động. Dựa vào quy định của BLHS và thực tiễn áp dụng, các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có hành vi khách quan khác nhau. Đó có thể là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được (đối với tội cướp tài sản); hành vi bắt cóc con tin và hành vi đe dọa chủ tài sản (đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc hành vi uy hiếp tinh thần người khác (đối với tội cưỡng đoạt tài sản); hành vi chiếm đoạt (đối với các tội cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản). Tuy nhiên, thủ đoạn, cách thức thực hiện hành vi và điều kiện khi thực hiện hành vi là khác nhau và chúng là dấu hiệu phân biệt các tội phạm có cùng hành vi chiếm đoạt với nhau. Cụ thể, đối với tội Cướp giật tài sản, dấu hiệu công khai là thuộc tính của hành vi chiếm đoạt và dấu hiệu nhanh chóng phản ánh thủ đoạn của người phạm tội; đối với tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản, đó là dấu hiệu công nhiên (tính công khai của hành vi chiếm đoạt) và hoàn cảnh, điều kiện tự nhiên mà hành vi chiếm đoạt được thực hiện (chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản cho dù người phạm tội không hề sử dụng thủ đoạn nào); đối với Trộm cắp tài sản, đó là thủ đoạn lén lút của người phạm tội khi thực hiện hành vi chiếm đoạt; đối với Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đó là thủ đoạn gian dối được thực hiện trước khi hành vi chiếm đoạt được thực hiện. - Về dấu hiệu lỗi, mục đích thuộc mặt chủ quan của tội phạm: Tất cả các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Tức người phạm tội biết hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn thực hiện. Đối với các tội từ Điều 133 đến Điều 135 BLHS, khách thể được bảo vệ bao gồm quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Để xâm phạm quan hệ sở hữu, người phạm tội phải có hành vi xâm hại quan hệ nhân thân. Trong đó, quan hệ nhân thân rõ ràng quan trọng hơn quan hệ sở hữu nên các tội này có cấu thành hình thức, chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội xem như tội phạm đã hoàn thành. Như trình bày bên trên, người thực hiện hành vi vi phạm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đều có ý thức chiếm đoạt. Xuất phát từ khách thể được bảo vệ mà hành vi khách quan của các tội này không có dấu hiệu chiếm đoạt cho nên dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện qua mục đích phạm tội. Vì vậy, dấu hiệu mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của các tội này. Đây là cơ sở phân biệt các tội này với các tội khác do BLHS quy định có hành vi khách quan tương tự như hành vi phạm tội của các tội này. Đối với tội cướp giật tài sản, mặc dù khách thể mà tội này xâm phạm cũng là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân nhưng khác với các tội tại các Điều 133, 134, 135 BLHS. Hành vi khách quan do BLHS quy định đối với tội cướp giật tài sản xâm phạm trực tiếp đến quan hệ sở hữu và qua việc xâm phạm quan hệ sở hữu mới xâm phạm đến quan hệ nhân thân nên dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện qua hành vi chiếm đoạt được mô tả trong điều luật. Đối với tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, việc người phạm tội có được tài sản thông qua giao dịch dân sự (hoặc kinh doanh thương mại, lao động) hợp pháp cho nên dấu hiệu hành vi được thể hiện qua việc không trả lại tài sản bằng thủ đoạn bỏ trốn hoặc bằng thủ đoạn gian dối (như giả tạo bị mất; đánh tráo tài sản; rút bớt tài sản …) hoặc không trả lại được tài sản do không có khả năng vì đã sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp (như dùng vào việc buôn lậu, buôn bán hàng cấm hay đánh bạc…) [4]. Có thể thấy, tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là sự chuyển hóa từ giao dịch dân sự (theo nghĩa rộng) hợp pháp sang hành vi phạm tội khi có sự vi phạm giao dịch dân sự hoặc có hành vi sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản kèm theo mục đích chiếm đoạt. Hiện nay, có nhiều quan điểm cho rằng, dấu hiệu chiếm đoạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được biểu hiện qua hành vi chiếm đoạt. Chúng tôi không thống nhất với quan điểm này. Bởi vì, khoản 1 Điều 140 BLHS quy định về cấu thành tội phạm cơ bản như sau: “Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm: a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.” Chính vì, khoản 1 Điều 140 BLHS quy định nhiều thuật ngữ chiếm đoạt nên dẫn đến cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu quy định của điều luật thấy rằng, đoạn đầu của khoản 1 Điều 140 BLHS sử dụng thuật ngữ “chiếm đoạt” không phải gắn với các hành vi sẽ được thực hiện ở các điểm a, b mà chúng thể hiện mục đích của người thực hiện hành vi ở các điểm a, b. Điều này được nhắc lại ở cuối điểm a. Bên cạnh đó, hành vi dùng thủ đoạn gian dối, bỏ trốn hay “sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp” không thể là hành vi chiếm đoạt mà chiếm đoạt chỉ có thể là mục đích của các hành vi này. Chúng tôi cho rằng, dấu hiệu “chiếm đoạt tài sản của người khác” chỉ có ý nghĩa đối với điểm b của khoản 1 Điều 140 BLHS. Bởi vì, phân tích hành vi ở điểm b khoản 1 Điều 140 BLHS, thấy rằng, nếu không có dấu hiệu “chiếm đoạt tài sản của người khác” ở đầu khoản 1 thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp họ sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dù có mục đích chiếm đoạt (tức không trả lại tài sản) hay không có mục đích chiếm đoạt (khi họ mong muốn có nhiều tài sản để trả lại cho chủ sở hữu). Rõ ràng việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trường hợp sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp mà họ không có mục đích chiếm đoạt sẽ không phù hợp với việc định tội danh và sự phân loại các tội xâm phạm sở hữu. Cho nên, dấu hiệu chiếm đoạt trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải là mục đích chiếm đoạt, chứ không phải là hành vi chiếm đoạt. Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, do không phân biệt được dấu hiệu chiếm đoạt là hành vi chiếm đoạt hay mục đích chiếm đoạt mà đã có nhiều vụ án cơ quan tiến hành tố tụng đã hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh doanh thương mại. Chẳng hạn, từ tháng 8/2005 đến tháng 12/2005, ông Lê Duy N (chủ cơ sở sản xuất rượu D.N) đã nhiều lần vay của bà S. tổng cộng 375 triệu đồng. Theo thỏa thuận, lãi suất vay là 6%/tháng và đến đầu năm 2006, ông N sẽ trả cả lãi lẫn vốn. Sau đó, ông N khất nợ, dùng giấy tờ đất của người khác thế chấp cho bà S, đồng thời làm hợp đồng chuyển nhượng 1.400 m2 đất của ông N (đã đem thế chấp ngân hàng) để cấn nợ. Phát hiện, bà S. tố cáo. Ông N bị khởi tố, bắt tạm giam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Khi tòa án cấp sơ thẩm đưa ông N ra xét xử hồi tháng 11/2007, đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị phạt ông N từ 07 đến 08 năm tù. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên ông N không phạm tội. Sau đó, Viện kiểm sát kháng nghị nhưng đã bị Tòa án cấp phúc thẩm bác kháng nghị.[5] Mấu chốt của vụ án này là cần làm rõ ông N có mục đích chiếm đoạt hay không. Mặc dù, ông N không thực hiện cam kết trả nợ đúng hạn, có những hành vi gian dối nhất định trong việc khất nợ (như lấy tài sản của người khác thế chấp và đem tài sản đã thế chấp ngân hàng cấn nợ. Tuy nhiên, các hành vi đó chỉ nhằm giãn nợ, hoãn thời gian trả nợ. Quan hệ vay nợ giữa ông N và bà S. chỉ là giao dịch dân sự. Vì không chứng minh được mục đích chiếm đoạt của ông N mà chỉ dựa vào hành vi nên Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã hình sự hóa quan hệ dân sự. Như vậy, tùy thuộc vào đặc trưng của từng tội do BLHS quy định mà dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là khác nhau. Nhưng chúng chỉ biểu hiện dưới 02 dấu hiệu nhất định hoặc là hành vi chiếm đoạt hoặc là mục đích chiếm đoạt.
 1.2. Khái niệm chiếm đoạt và những biểu hiện của dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Như phân tích bên trên, dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt biểu hiện qua 01 trong 02 dạng là mục đích chiếm đoạt và hành vi chiếm đoạt. Sau đây, chúng tôi lần lượt phân tích khái niệm chiếm đoạt, biểu hiện của mục đích chiếm đoạt và hành vi chiếm đoạt. 1.2.1. Khái niệm chiếm đoạt trong dấu hiệu chiếm đoạt Để hiểu những biểu hiện của mục đích chiếm đoạt, hành vi chiếm đoạt cần hiểu được khái niệm chiếm đoạt. Có ý kiến cho rằng, các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là những tội xâm phạm sở hữu bằng việc chiếm đoạt nên trong cấu thành tội phạm của những tội này có dấu hiệu chiếm đoạt. Trong đó, “chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của chủ tài sản thành tài sản của mình”.[6] Như vậy, quan điểm này thể hiện được bản chất của khái niệm chiếm đoạt nhưng đã đồng nhất dấu hiệu chiếm đoạt với hành vi chiếm đoạt. Trong khi đó, theo Từ điển tiếng Việt, chiếm đoạt là “chiếm của người làm của mình, bằng cách dựa vào vũ lực, quyền thế”.[7] Bên cạnh đó, qua phân tích dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ở trên, bên cạnh chiếm đoạt là thuộc tính của hành vi phạm tội chúng còn biểu hiện là mục đích phạm tội. Vì vậy, khái niệm chiếm đoạt cần phải bao quát cả ở khía cạnh hành vi phạm tội và mục đích phạm tội. Từ đó, chúng tôi cho rằng khái niệm chiếm đoạt trong dấu hiệu chiếm đoạt cần được hiểu như sau: “chiếm đoạt là việc cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của chủ sở hữu thành tài sản của mình. Chúng được biểu hiện dưới dạng hành vi hoặc mục đích phạm tội”.
 1.2.2. Về biểu hiện của mục đích chiếm đoạt Qua phân tích trên, mục đích chiếm đoạt là yếu tố bắt buộc trong cấu thành các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, biểu hiện mục đích chiếm đoạt của các tội này không phải đều giống nhau. Tùy thuộc vào từng tội cụ thể mà mục đích phạm tội xuất hiện trước khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội, trong khi thực hiện hành vi phạm tội hoặc sau khi thực hiện hành vi phạm tội. Chẳng hạn, đối với tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, do đây là các tội có cấu thành hình thức nên khi người phạm tội có hành vi mà điều luật mô tả thì tội phạm đã hoàn thành. Trong khi theo lý luận về các giai đoạn thực hiện tội phạm thì khi tội phạm ở giai đoạn hoàn thành (tội phạm hoàn thành) thì hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm [8] nên không cần thêm bất cứ dấu hiệu nào khác. Cho nên, mục đích chiếm đoạt trong các tội này chỉ có thể xuất hiện trước và trong khi thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp mục đích chiếm đoạt xuất hiện sau khi thực hiện hành vi phạm tội thì tùy từng tội mà có sự định tội danh khác nhau. Chẳng hạn, đối với hành vi dùng vũ lục, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được, nếu sau khi thực hiện hành vi người phạm tội mới có mục đích chiếm đoạt thì người phạm tội không phạm tội cướp tài sản mà có thể phạm tội giết người, cố ý gây thương tích, công nhiên chiếm đoạt tài sản, chiếm giữ trái phép tài sản khi hành vi của người phạm tội đáp ứng mặt khách quan của từng tội tương ứng. Lập luận này cũng phù hợp với vấn đề chuyển hóa từ các tội cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản được quy định tại tiểu mục 6.2 mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn áp dụng các quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999 (viết tắt là Thông tư liên tịch số 02). Đó là trường hợp “Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì trường hợp này không phải là “hành hung để tẩu thoát” mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản”. Bởi vì, trường hợp này, mục đích chiếm đoạt đã xuất hiện trước khi thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc để giữ cho được tài sản khi tẩu thoát. Đối với hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật mà sau khi thực hiện hành vi mới có mục đích chiếm đoạt thì sẽ có sự chuyển hóa từ tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 123 BLHS) sang tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Đối với hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn uy hiếp tinh thần người khác nhưng mục đích chiếm đoạt có trong hoặc sau khi thực hiện hành vi thì thì từng trường hợp sẽ có sự chuyển hóa từ tội có hành vi khách quan tương tự hành vi khách quan của tội cưỡng đoạt tài sản như: tội khủng bố (Điều 84), tội bức tử (Điều 100), tội cưỡng dâm (Điều 113), tội cưỡng trẻ em (Điều 114), tội cưỡng ép kết hôn (Điều 146) sang tội cưỡng đoạt tài sản. Riêng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, mục đích chiếm đoạt phải gắn liền với các hành vi dùng thủ đoạn gian dối, bỏ trốn hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản sau khi có được tài sản thông qua hợp đồng hợp pháp. Nếu mục đích chiếm đoạt có trước hoặc vào thời điểm nhận tài sản qua hợp đồng thì người thực hiện hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chứ không phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Với phân tích bên trên, mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của các tội được quy định tại các Điều 133, 134, 135 và 140 BLHS. Tuy nhiên, do mục đích chiếm đoạt là yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội phạm, tức là chúng ẩn bên trong; không biểu hiện ra bên ngoài như mặt khách quan của tội phạm nên việc đánh giá mục đích chiếm đoạt không hề dễ dàng. Như chúng ta đã biết, tội phạm là tổng hợp của các yếu tố bên trong (mặt chủ quan) và các yếu tố bên ngoài (mặt khách quan) cùng với khách thể, chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. Do mục đích chiếm đoạt là yếu tố bên trong nên để đánh giá người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội có mục đích chiếm đoạt hay không cần phải dựa vào mặt khách quan biểu hiện ra bên ngoài (đó là hành vi phạm tội, điều kiện, hoàn cảnh, công cụ, phương tiện phạm tội …) để đánh giá trong sự kết hợp với ý chí chủ quan của người phạm tội qua sự thừa nhận của họ. Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, do quá đề cao sự thừa nhận của người phạm tội về mục đích chiếm đoạt mà có sự định tội không đúng giữa các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt (có dấu hiệu chiếm đoạt thuộc mục đích phạm tội) với các tội khác có hành vi khách quan tương tự.
 Chẳng hạn, Lê Văn A và Trần Văn T là những người không nghề nghiệp, thường gây rối và trộm vặt tại địa phương. A và T đến trung tâm thị trấn L, huyện A, tỉnh A để chơi. Khi đang trên đường đi bộ về nhà thì gặp anh Phan Văn Ch đang dắt xe bị xẹp lốt tìm chỗ vá. A và T đã đi đến gần anh Ch. A chạy đến ôm anh Ch và T dùng tay đánh vào mặt 2 cái. Anh Ch bỏ chạy. A và T đã dắt xe của anh Ch về nhà T định chờ đến sáng để bán lấy tiền tiêu xài. Do anh Ch báo Công an thị trấn L nên khoảng 1 giờ sau T và A bị bắt giữ cùng chiếc xe của Ch. Thời điểm xảy ra sự việc khoảng 10 giờ đêm, đoạn đường thuộc nội ô thị trấn, có đèn đường chiếu sáng. Tuy nhiên, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với A, T lại có nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, do A và T khai không có mục đích chiếm đoạt xe của anh Ch mà chỉ muốn đánh anh Ch để trả thù do anh Ch giống người đã đánh A trước đó vài ngày nên hành vi của A và T không phạm tội cướp tài sản mà chỉ có hành vi gây thương tích cho anh Ch. Do thương tích của an Ch chưa đủ định lượng nên A và T chỉ bị xử lý hành chính. Quan điểm thứ hai cho rằng, A và T chỉ phạm tội công nhiêm chiếm đoạt tài sản vì A và T nảy sinh ý thức chiếm đoạt xe của anh Ch sau khi Ch bỏ chạy. Chúng tôi không thống nhất với 02 quan điểm trên mà cho rằng hành vi của A và T đã đủ yếu tố cấu thành tội cướp tài sản. Bởi vì, việc đánh giá khi thực hiện hành vi A và T có mục đích chiếm đoạt xe mô tô của Ch hay không phải dựa diễn biến sự việc; hành vi mà A và T đã thực hiện; không gian, địa điểm xảy ra sự việc. Xem xét diễn biến sự việc thấy rằng, A và T đã ngang nhiên dùng vũ lực đối với anh Ch vào lúc ánh sáng đầy đủ, không có người qua lại vào ban đêm và khi anh Ch bỏ chạy thì A và T có hành vi dắt xe của Ch về nhà T nên có cơ sở xác định hành vi của A và T đã đủ yếu tố cấu thành tội cướp tài sản. Cả 02 quan điểm trên quá phụ thuộc vào lời khai nhận của A và T về việc khi thực hiện hành vi A và T không có mục đích chiếm đoạt xe của Ch dẫn đến việc xác định trách nhiệm hình sự đối với A và T chưa phù hợp với quy định của pháp luật. 1.2.3. Về biểu hiện của hành vi chiếm đoạt Như phân tích bên trên, hành vi chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc đối với các tội từ Điều 136 đến Điều 139 BLHS. Tuy nhiên, hành vi chiếm đoạt, xét về mặt khách quan là hành vi làm cho chủ tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài sản đó. Quá trình này xét về mặt pháp lí không làm cho chủ sở hữu mất quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở hữu. Hành vi chiếm đoạt với nội dung là quá trình như vậy được thể hiện ở những dạng hành vi cụ thể khác nhau, tuỳ thuộc vào mối quan hệ cụ thể giữa người chiếm đoạt và tài sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức chiếm đoạt cụ thể.[9] Nghiên cứu các tội từ Điều 136 đến Điều 139 BLHS, quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt diễn ra theo một trong 02 hướng sau: Người phạm tội chiếm giữ (chiếm hữu) tài sản từ người phạm tội (đối với các tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản) và người phạm tội chiếm giữ tài sản không từ người phạm tội thuộc 01 trong 02 trường hợp: (1) Người phạm tội chiếm giữ tài sản trước sự chứng kiến của người bị hại (đối với các tội cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản) hoặc là (2) Người phạm tội chiếm giữ tài sản không có sự chứng kiến của người bị hại (đối với tội trộm cắp tài sản). Để đánh giá các hành vi chiếm giữ tài sản có phạm tội hay không, cần phải đánh giá: (1) việc nhận tài sản từ chủ sở hữu của người phạm tội có phù hợp quy định của pháp luật dân sự hay không; (2) việc chiếm giữ tài sản có thuộc một trong các trường hợp xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 (viết tắt là BLDS) hay không. Như vậy, ngoại trừ các tội thực hiện với mục đích chiếm đoạt như các tội tại các Điều 133, 134, 135 và 140 BLHS, các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt còn lại hành vi phạm tội đều diễn ra theo một quá trình. Quá trình đó, được thể hiện qua việc tiếp cận, chiếm giữ (chiếm hữu) tài sản rồi chiếm đoạt tài sản. Việc xác định hành vi chiếm giữ có trái pháp luật hay không cần dựa vào quy định của pháp luật dân sự. Theo quy định tại Điều 164 BLDS, “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật”. Để chiếm đoạt tài sản tạo ra khả năng làm mất quyền sở hữu của chủ sở hữu và tạo ra quyền sở hữu cho mình, người phạm tội phải chiếm hữu tài sản một cách trái pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật dân sự không quy định thế nào là chiếm hữu trái pháp luật mà quy định hành vi chiếm hữu hợp pháp. Theo khoản 2 Điều 182 BLDS, “Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản”. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong các trường hợp sau đây: (1) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; (2) Người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản; (3) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; (4) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định; (5) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định và (6) Các trường hợp khác do pháp luật quy định.[10] Bên cạnh đó, BLDS còn quy định quyền chiếm hữu của từng chủ thể, từng trường hợp cụ thể từ Điều 184 đến Điều 192 BLDS. Ngoài các hành vi chiếm hữu này là chiếm hữu bất hợp pháp. Vì vậy, để xác định hành vi chiếm hữu của người phạm tội tại các tội từ Điều 136 đến Điều 139 BLHS cần phải xác định việc chiếm hữu của người phạm tội không thuộc các trường hợp chiếm hữu hợp pháp này. Xem xét việc chiếm đoạt là một quá trình vào quy định đối với từng tội phạm cụ thể từ Điều 136 đến Điều 139 BLHS thấy rằng, đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, để thực hiện được hành vi phạm tội, người phạm tội nhận tài sản từ người phạm tội nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt qua đúng quy trình bên trên. Tức là, người phạm tội tiếp cận tài sản qua việc dùng thủ đoạn gian dối, chiếm giữ tài sản rồi thực hiện việc chiếm đoạt. Đối với các tội cướp giật tài sản và công nhiên chiếm đoạt tài sản, người phạm tội không nhận tài sản từ người phạm tội và người phạm tội chiếm giữ tài sản trước sự chứng kiến của người bị hại nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt thông qua các giai đoạn tiếp cận tài sản, thực hiện hành vi chiếm giữ cũng là hành vi chiếm đoạt, tức hành vi chiếm giữ và hành vi chiếm đoạt là một. Đối với tội trộm cắp tài sản, người phạm tội không nhận tài sản từ người phạm tội và việc chiếm giữ tài sản không có sự chứng kiến của người bị hại nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt chỉ có việc tiếp cận, thực hiện hành vi chiếm đoạt mà không có hành vi chiếm giữ tài sản. Chính vì vậy, trong khoa học luật hình sự, thực tiễn xét xử thống nhất, tội trộm cắp tài sản là tội mà dấu hiệu chiếm đoạt thể hiện qua việc người phạm tội chiếm đoạt được tài sản. Để đánh giá người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt, được thể hiện qua 03 mức độ sau: (1) Nếu vật chiếm đoạt gọn nhỏ thì coi đã chiếm đoạt được khi người phạm tội đã dấu được tài sản trong người; (2) Nếu vật chiếm đoạt không thuộc loại nói trên thì coi chiếm đoạt được khi đã mang được tài sản ra khỏi khu vực bảo quản; (3) Nếu vật chiếm đoạt là tài sản để ở những nơi không hình thành khu vực bảo quản riêng thì coi là đã chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản khỏi vị trí ban đầu. Việc xác định chính xác hành vi chiếm đoạt đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ Điều 136 đến Điều 139 BLHS có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm tội phạm hoàn thành (không xem xét dấu hiệu giá trị tài sản chiếm đoạt cũng như các dấu hiệu khác về bị xử phạt vi phạm hành chính, có tiền án về hành vi chiếm đoạt…) đối với các tội mà dấu hiệu chiếm đoạt thuộc hành vi khách quan của tội phạm. Tùy vào từng tội cụ thể mà thời điểm hoàn thành của tội phạm là khác nhau. Bên cạnh đó, khi xem xét thời điểm hoàn thành của tội phạm cần có sự phân biệt giữa thời điểm tội phạm hoàn thành với thời điểm tội phạm kết thúc. Theo khoa học luật hình sự, thời điểm tội phạm kết thúc là thời điểm hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt; tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm.[12] 2. Một số cách hiểu khác nhau về dấu hiệu chiếm đoạt trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Thứ nhất, việc xác định mục đích chiếm đoạt có phải là dấu hiệu bất buộc trong các tội được quy định từ Điều 136 đến Điều 139 BLHS hay không? Như phân tích ở trên, dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được thể hiện qua 01 trong 02 hình thức là mục đích chiếm đoạt hoặc hanh vi chiếm đoạt. Tuy nhiên, đối với các tội mà hành vi chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm thì mục đích chiếm đoạt có phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm cơ bản hay không cũng chưa có sự thống nhất trong thực tiễn áp dụng. Hiện nay, có 03 quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc trong các tội từ Điều 136 đến Điều 139 BLHS.Quan điểm thứ hai cho rằng, trong các tội từ Điều 136 đến Điều 139 BLHS, do dấu hiệu chiếm đoạt là thuộc tính của hành vi phạm tội nên mục đích chiếm đoạt không phải là dấu hiệu bắt buộc trong các tội này. Quan điểm thứ ba cho rằng, mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc đối với các tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản.[15] Chúng tôi cho rằng, để đánh giá quan điểm nào phù hợp cần đánh giá mục đích của tội phạm thuộc mặt chủ quan của tội phạm và quy định của BLHS về từng tội phạm cụ thể. Theo khoa học luật hình sự, mặt chủ quan của tội phạm bao gồm: lỗi, mục đích phạm tội và động cơ phạm tội. Nếu như, lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt thì dấu hiệu mục đích chỉ có khi dấu hiệu hành vi chưa bộc lộ được dấu hiệu chiếm đoạt của tội phạm. Bởi vì, đặc điểm chung của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là dấu hiệu hiệu chiếm đoạ . Trong khi đó, mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích không được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Có trường hợp, mục đích thể hiện trong hậu quả của tội phạm; có trường hợp chúng thể hiện qua hành vi phạm tội. Cho nên, mục đích của tội phạm chỉ được phản ánh (bắt buộc phải có) trong cấu thành tội phạm trong trường hợp dấu hiệu hậu quả, hành vi khách quan không phản ánh được mục đích của tội phạm thì khi đó, dấu hiệu mục đích mới bắt buộc phải có trong cấu thành tội phạm. Đối với trường hợp hành vi không phản ánh được mục đích của tội phạm thì mục đích bắt buộc trong cấu thành tội phạm có ý nghĩa trong việc phân biệt các hành vi khách quan của các tội có hành vi tương tự nhau. Như phân tích bên trên, hành vi khách quan của các tội từ Điều 136 đến Điều 139 BLHS là giống nhau (đó là hành vi chiếm đoạt). Tuy nhiên, thủ đoạn, cách thức thực hiện hành vi gắn liền với hành vi chiếm đoạt có vai trò phân biệt hành vi chiếm đoạt của các tội khác nhau. Chính vì vậy, mục đích phạm tội (cụ thể là mục đích chiếm đoạt) không thể là dấu hiệu bắt buộc của các tội từ Điều 136 đến Điều 139 BLHS. Chính vì chưa nắm rõ yếu tố này, mà thực tiễn khi không chứng minh được mục đích chiếm đoạt trong các tội từ Điều 136 đến Điều 139 mà cơ quan tiến hành tố tụng cho rằng người đã thực hiện hành vi chiếm đoạt không phạm tội. Chẳng hạn, ngày 14/9/2012, anh S (thầu xây dựng Trường mẫu giáo A tại thị xã T) có thuê Đ lắp đặt đường dây điện của Trường. Trong khoảng thời gian thực hiện công việc, Đ chưa được trả công nên có yêu cầu anh S cho ứng tiền trước. Do anh S không ứng tiền trước nên khuya ngày 05/10/2012, Đ lén đột nhập vào kho của Công trình lấy 09 cuộn dây điện có tổng trị giá 20 triệu đồng mang về nhà cất giữ. Sáng ngày 05/10/2012, anh T (công nhân thực hiện việc khóa kho) phát hiện bị mất tài sản nên báo cho anh S biết. Anh S nói lại cho anh K (người làm công) biết việc mất trộm. Anh K gọi cho Đ thì được Đ cho biết Đ đã lấy các cuộn dây điện đó nhằm mục đích để anh S trả tiền công cho Đ. Liên ngành tư pháp ở địa phương đã tiến hành họp về việc có truy cứu trách nhiệm hình sự Đ hay không và tất cả đã thống nhất không truy cứu trách nhiệm hình sự Đ do Đ không có mục đích chiếm đoạt các cuộn dây điện. Chúng tôi cho rằng, cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Đ về tội trộm cắp tài sản. Bởi vì, tội trộm cắp tài sản không bắt buộc phải chứng minh mục đích chiếm đoạt của người phạm tội bởi vì hành vi (chiếm đoạt) và thủ đoạn thực hiện đã phản ánh đầy đủ bản chất cũng như dấu hiệu cơ bản của tội này và là cơ sở để phân biệt tội trộm cắp tài sản với các tội phạm khác. Trong vụ án cụ thể trên, Đ đã có hành vi lén lút chiếm đoạt các cuộn dây điện. Tội phạm đã hoàn thanh khi Đ mang 09 cuộn dây điện ra khỏi kho của công trình. Rõ ràng hành vi của Đ là hành vi chiếm đoạt. Việc đánh giá ý thức chiếm đoạt của người phạm tội phải dựa vào hành vi khi thực hiện chứ không phải theo sự thừa nhận của người phạm tội. Hơn nữa, sau khi lấy tài sản Đ không hề cho ai biết và khi hành vi đã bị phát hiện thì Đ mới cho rằng mục đích lấy tài sản là để anh S trả tiền công cho mình. Hành vi của Đ đã đáp ứng tất các các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản. Trong trường hợp nếu anh S không báo công an, không trả tiền công cho Đ thì liệu Đ có trả lại số tài sản đã chiếm đoạt hay không. Không những thế, nếu không truy cứu trách nhiệm hình sự của Đ thì chẳng khác nào tiếp tay cho những hành vi chiếm đoạt tài sản kiểu này diễn ra trong thực tiễn. Hơn nữa, nếu không truy cứu trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi chiếm đoạt sẽ tạo ra sự không công bằng trong việc áp dụng pháp luật. Chúng ta thấy rằng, trong thực tiễn, khi chủ nợ đến đòi nợ nhưng con nợ không trả và họ có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực lấy tài sản để trừ nợ thì chủ nợ bị truy cứu về tội cướp tài sản. Trong khi đó, hành vi lén lút chiếm đoạt trong 02 ví dụ trên còn dễ làm cho chủ sở hữu mất quyền sở hữu của mình vì họ không có điều kiện giữ lại tài sản của mình như trong tội cướp tài sản. Tuy nhiên, người thực hiện hành vi chiếm đoạt lại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thứ hai, việc xác định thời điểm hoàn thành của một số tội mà dấu hiệu chiếm đoạt là thuộc tính của hành vi phạm tội Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, do chưa nắm rõ quy trình thực hiện hành vi chiếm đoạt đối với một số tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt mà việc xác định thời điểm hoàn thành của một số tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt không thống nhất. Đối với tội cướp giật tài sản, thời điểm hoàn thành của hành vi hiện nay tồn tại 02 quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, thời điểm hoàn thành của tội khi người phạm tội có hành vi chiếm đoạt. Ý kiến khác lại xác định, tội phạm chỉ hoàn thành khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản. Các quan điểm khác nhau này được thể hiện qua vụ án sau: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 07/10/2012, Nguyễn Văn T điều khiển xe gắn máy Airblade biển số 67N8 – 7477 chở Trần Văn Th (ngồi giữa), Huỳnh Văn M ngồi phía sau đi từ hướng kênh đào lên thị xã C để đi đến quán Karaoke Thảo Nguyên tiếp tục uống rượu. Khi đến khu vực phường VM, T điều khiển xe vượt qua phía bên trái xe của chị Huỳnh Thị H đang chạy cùng chiều. Cùng lúc này, M ngồi phía sau nhìn thấy trên cổ của chị H có đeo dây chuyền (trị giá 3.065.400 đồng) nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. M dùng tay giật đứt sợi dây chuyền của chị H và kêu T “chạy đi, chạy đi”. Sau khi bị giật dây chuyền, chị H truy hô “cướp, cướp” và đuổi theo M và T đến khu vực quán cà phê Vườn Táo thuộc khóm C thì xe của chị H đụng vào đuôi xe của T làm ngã xe. M cầm sợi dây chuyền bỏ chạy ra đồng. Chị H đuổi theo nhưng không bắt kịp. Riêng T và Th bỏ về nhà. Chị H đến Công an phường VM trình báo sự việc. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, tại phòng số 6 Karaoke Thảo Nguyên, M đưa cho T sợi dây chuyền và nói lại cho T nghe việc M giật dây chuyền của chị H và kêu T trả lại dây chuyền cho chị H, do chị H là người quen của T. T cất giử dây chuyền, đến khoảng 18 giờ ngày 08/10/2012 mang trả lại dây chuyền cho chị H. Có 02 quan điểm khác nhau về thời điểm hoàn thành của tội phạm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, thời điểm hoàn thành của tội phạm khi T chở M trốn thoát. Cho nên, hành vi của T là giúp sức để M thực hiện trót lọt hành vi phạm tội của mình. Bởi vì, mặc dù, giữa M và T không có sự thỏa thuận trước và khi M thực hiện hành vi chiếm đoạt T không biết. Tuy nhiên, khi nghe chị H truy hô và M kêu chạy đi thì T bỏ chạy. Cho nên, T phải là đồng phạm của M. Ý kiến thứ hai cũng là ý kiến của tác giả, trong vụ án trên, T không biết việc M thực hiện hành vi chiếm đoạt dây chuyền của chị H bởi vì M không bàn bạc trước với T và khi M thực hiện hành vi T không hề hay biết. Như phân tích bên trên, đối với tội cướp giật tài sản, khi người phạm tội thực hiện hành vi chiếm hữu cũng là lúc người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt (cả hai có cùng thời điểm). Cho nên, khi M thực hiện hành vi cướp giật thì tội phạm đã hoàn thành. Vì vậy, sau khi giật được tài sản, M kêu T chạy đi thì theo phản xạ tự nhiên T lái xe chạy. Việc T không dừng xe lại cũng chỉ có thể đánh giá T giúp M tẩu thoát chứ không thể quy kết T là đồng phạm với M. Nếu sau đó, T có được M chia lợi nhuận hoặc cất giấu tài sản giùm M thì T chỉ có thể phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có được quy định tại Điều 250 BLHS. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tương tự tội cướp giật tài sản, thời điểm hoàn thành cũng có 02 quan điểm khác nhau. Đó là thời điểm phải chiếm đoạt được tài sản và thời điểm có hành vi chiếm đoạt. Điều này được thể hiện qua vụ án cụ thể sau: Nguyễn Hải V được vợ nhờ đi sửa chiếc đồng hồ. Khoảng 14 giờ ngày 21/6/2004, V nhờ bạn là Dương Thanh B chở đến Cửa hàng đồng hồ ở cùng thị trấn để lấy đồng hồ nhưng chưa sửa xong. Trên đường về nhà, khi đi qua hiệu đồng hồ ĐT, V nảy sinh ý định chiếm đoạt. V kêu B dừng xe, đứng ngoài chờ. V vào cửa hàng và yêu cầu cho xem 03 chiếc đồng hồ để chọn. Khi cầm đồng hồ, V nói với chủ tiệm đi ra ngoài để hỏi ý kiến anh họ. Lê Văn T (chủ cửa hiệu) đồng ý và đi theo. V liền chạy ra đường, lên xe kêu B cho xe chạy nhanh. T có đuổi theo nhưng không kịp. Sau khi tẩu thoát, V thông báo cho B biết mình vừa lấy được 3 chiếc đồng hồ và cho B 01 chiếc. Giá trị 03 chiếc đồng hồ được định giá lá 1.050.000 đồng. Trong đó, đồng hồ V cho B trị giá 450.000 đồng. Qua vụ án trên, ý kiến thứ nhất cho rằng, B là đồng phạm của V. Bởi vì, khi V chạy ra xe thì V chưa chiếm đoạt được tài sản. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu xét trên trục thời gian thì chúng có 03 giai đoạn là người phạm tội thực hiện hành vi gian dối, chiếm giữ tài sản và chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp này, chủ tài sản vẫn còn đi theo nên tài sản chưa thoát ly khỏi chủ sở hữu. Khi V lên xe và B chạy đi thì khi đó tội phạm mới hoàn thành do V đã chiếm đoạt được tài sản. Khi V chưa chiếm đoạt được tài sản thì B có hành vi giúp V bỏ chạy nên B phải là đồng phạm với vai trò là người giúp sức.[18] Ý kiến khác cho rằng, B chỉ phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có vì tội phạm đã hoàn thành khi V đi ra và nhảy lên xe kêu B chạy đi sau khi nhận tài sản từ T. Chúng tôi thống nhất với ý kiến thứ 02. Bởi vì, đúng là đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hành vi chiếm đoạt có các giai đoạn như ý kiến thứ nhất. Tuy nhiên, sau khi V thực hiện hành vi chiếm giữ (nhận tài sản) từ T thì V đã đi ra ngoài rồi nhảy lên xe mô tô kêu B chạy. Thời điểm V kêu B chạy xe là thời điểm tội phạm đã hoàn thành. Việc V ngồi lên xe chỉ để tẩu thoát và B chạy xe chỉ theo lẽ tự nhiên. Do việc V vào cửa hàng, dùng thủ đoạn gian dối, thực hiện hành vi chiếm hữu, rồi tiến hành chiếm đoạt tài sản B không biết nên B không phải là đồng phạm của V. Trong khi, sau khi biết V chiếm đoạt 03 chiếc đồng hồ của T, B vẫn nhận 01 chiếc do V cho thì hành vi của B phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại Điều 250 BLHS là phù hợp. Trong thực tiễn, việc đánh giá hành vi chiếm đoạt để xác định thời điểm hoàn thành của tội trộm tài sản cũng có sự thiếu thống nhất. Điều này được thể hiện qua vụ án sau: Thấy nhà ông Trần Văn B không có người, Nguyễn Văn A lén vào nhà lấy 01 điện thoại di động hiệu Nokia (trị giá 4.200.000 đồng) bỏ vào túi quần đi ra khỏi nhà. Tuy nhiên, khi A vừa ra khỏi nhà thì gặp Lê Văn T (người hàng xóm của B). T hỏi A vì sao lại vào nhà B thì A nói vào đó có chuyện rồi bỏ đi. Đến chiều cùng ngày, khi đi làm về nhà, B phát hiện bị mất điện thoại. B mang chuyện mất điện thoại kể lại cho T thì được T cho biết, vào buổi sáng có thấy A từ nhà B đi ra nhưng không rõ vào đó làm gì. B liền đi tìm A hỏi chuyện và yêu cầu A trả lại tài sản nhưng A không đồng ý mà đã đánh nhau với B rồi bỏ trốn cùng với điện thoại chiếm đoạt được. Việc định tội danh với A có 02 quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, A phạm tội trộm cắp tài sản với tình tiết định khung ở khoản 2 Điều 138 “hành hung để tẩu thoát”. Quan điểm thứ hai xác định, hành vi của A phạm tội cướp tài sản vì có sự chuyển hóa từ tội trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản khi A dùng vũ lực để tẩu thoát cùng với chiếc điện thoại chiếm đoạt được. Chúng tôi không đồng ý với 2 ý kiến trên mà xác định A chỉ phạm tội trộm cắp tài sản. Bởi vì, tình tiết “hành hung để tẩu thoát” và chuyển hóa từ tội trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản được hướng dẫn tại mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02. Tuy nhiên, việc áp dụng hướng dẫn tại mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02 khi người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản nhưng bị phát hiện ngay lúc đó mà người phạm tội có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực chống lại để tẩu thoát thì mới áp dụng tình tiết “hành hung để tẩu thoát” (trường hợp không có ý giữ tài sản cùng trốn thoát) hoặc có sự chuyển hóa sang tội cướp tài sản (trường hợp có ý giữ tài sản cùng trốn thoát). Đối với vụ án trên, từ lúc A thực hiện hành vi chiếm đoạt đến lúc A dùng vũ lực đối với B cách nhau khoảng thời gian dài. Khi đó, tội trộm cắp tài sản đã hoàn thành thời gian lâu nên không thể áp dụng tình tiết “hành hung để tẩu thoát” và chuyển hóa từ tội trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản như 02 ý kiến nêu trên. Như vậy, việc hiểu dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt quy định từ Điều 133 đến Điều 140 BLHS có ý nghĩa quan trong trong việc phân biệt nhóm tội này với các tội khác và tránh nhầm lẫn trong việc định tội danh giữa các tội thuộc nhóm tội này với nhau, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử; đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cá nhân, cơ quan và tổ chức.

Không có nhận xét nào: