Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2015

Công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, Thực trạng và giải pháp

Hiện trường được hiểu là nơi diễn ra các mặt khách quan của tội phạm hoặc là nơi phát hiện tội phạm, như nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông, cháy, nổ, nơi phát hiện tử thi ... 

   
  Vấn đề mang tính quy luật của tội phạm là hành vi phạm tội thường để lại dấu vết, và những dấu vết đó thường để lại trên hiện trường. Vì vậy, hiện trường là nơi ghi đậm các tình tiết của vụ án, nơi chứa đựng những chứng cứ quan trọng nhất, có tính cốt tử của vụ án. Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi là hoạt động điều tra nhằm phát hiện, thu thập, ghi nhận và bảo quản các tang vật, dấu vết có liên quan đến vụ án đã xảy ra, làm cơ sở cho việc đánh giá, làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án. Qua khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi có thể xác định được nội dung, tính chất của vụ án; như phương thức, thủ đoạn, thời gian phạm tội và những đặc điểm của hành vi phạm tội, như kẻ phạm tội dùng hung khí gì, nguyên nhân của việc gây cháy ... từ đó có cơ sở để xác định đúng phương hướng điều tra. Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi tốt, giúp cho việc xác định phương hướng điều tra chính xác, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi yếu hoặc sai sót thì làm cho quá trình điều tra vụ án khó khăn, thậm chí bế tắc.

Một số loại án sau đây thường có hiện trường, đồng thời hiện trường có vai trò hết sức quan trọng trong việc đánh giá chứng cứ vụ án. Đó là các vụ án giết người, hiếp dâm, cố ý gây thương tích, cướp tài sản, huỷ hoại tài sản, vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông, các vụ án cháy, nổ và nhiều loại án khác.

Theo tinh thần của Bộ Luật tố tụng hình sự năm 1988 (Chương XII) và Bộ Luật tố tụng hình sự (sửa đổi) năm 2003 (Chương XIII) quy định về công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi thì cơ quan điều tra mà trực tiếp là điều tra viên có trách nhiệm tổ chức các cuộc khám nghiệm hiện trường và Viện kiểm sát, trực tiếp là kiểm sát viên phải thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khám nghiệm hiện trường, đảm bảo cho việc khám nghiệm tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Như vậy, mặc dù việc khám nghiệm do cơ quan điều tra thực hiện, song Viện kiểm sát có vai trò rất quan trọng. Kết quả khám nghiệm có tốt hay không, có đúng pháp luật hay không đều trực tiếp liên quan đến trách nhiệm của cả cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Như vậy, đối với các vụ án có hiện trường thì chất lượng hồ sơ vụ án phụ thuộc rất lớn vào năng lực, trách nhiệm của cán bộ điều tra viên, kiểm sát viên khi khám nghiệm hiện trường.

Theo quy định tại điều 125 và điều 126 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 1989 thì khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, điều tra viên phải báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Theo quy định này thì khi điều tra viên khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, việc báo cho Viện kiểm sát cùng cấp là vấn đề bắt buộc. Còn Viện kiểm sát tham gia như thế nào là vấn đề chưa được quy định. Do đó trong thực tiễn có trường hợp điều tra viên có báo cáo cho Viện kiểm sát, nhưng Viện kiểm sát không cử kiểm sát viên tham gia. Trong một số trường hợp khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi không có kiểm sát viên tham gia, tính khách quan, chính xác trong việc khám nghiệm chưa được đảm bảo, do đó gặp rất nhiều khó khăn trong việc đánh giá, tổng hợp chứng cứ của vụ án. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã khắc phục sơ hở trên đây bằng việc quy định tại điều 150 và 151 về khám nghiệm hiện trường và khám nghiệm tử thi, trong mọi trường hợp, trước khi khám nghiệm điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát biết. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi. Vì vậy, Viện kiểm sát các cấp, nhất là các kiểm sát viên làm nhiệm vụ kiểm sát điều tra hình sự phải hết sức chú trọng nghiên cứu, thực hiện tốt nhiệm vụ này.

Trong những năm qua, lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao hết sức quan tâm chỉ đạo công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường. Nội dung công tác này luôn được nhấn mạnh trong các chỉ thị công tác hàng năm. Gần đây nhất, Chỉ thị số 02/2006/CT ngày 9/1/2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2006, nêu rõ “Đối với các vụ trọng án không quả tang, những vụ án nghiêm trọng phức tạp, lãnh đạo Viện phải trực tiếp tham gia khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi”. Thực hiện yêu cầu của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát các cấp đã thực sự chú trọng và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường.

Do đó, thời gian qua, công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi đã có nhiều tiến bộ. Hầu hết các vụ án có hiện trường đã được kiểm sát viên, tham gia kiểm sát chặt chẽ việc khám nghiệm. Các quy định về khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, về xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, về lập biên bản khám nghiệm, về trưng cầu giám định đã được thực hiện tốt hơn trước. Kết quả các cuộc khám nghiệm đã thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc xác định phương hướng điều tra, giải quyết các vụ án. Nhiều vụ trọng án không phát hiện được quả tang (như giết người, vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông gây hậu quả nghiêm trọng), nhưng do thực hiện tốt việc khám nghiệm hiện trường đã góp phần quan trọng làm rõ các tình tiết của vụ án, phát hiện kẻ phạm tội. Nhiều trường hợp phạm tội đã được các cấp xét xử khách quan, án đã có hiệu lực, nhưng bị cáo vẫn kêu oan, đưa ra nhiều tình tiết mới như bị bức cung, mớm cung, nhằm phủ nhận lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và tại các phiên toà trước đó. Nhưng qua xem xét lời khai của các nhân chứng, của các bị cáo khác, đặc biệt là căn cứ vào các vật chứng, biên bản hiện trường vụ án đã xác định việc kết tội bị cáo là chính xác, không có căn cứ để kháng nghị nên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định không kháng nghị vụ án. Đáng chú ý như vụ Nguyễn Văn Vạn (võ sư) cùng đồng bọn – Giết người (anh Quân) ở thành phố Hồ Chí Minh ngày 19/12/1996; vụ án có nhiều đối tượng tham gia, phạm tội xong bỏ trốn, khai báo không thành khẩn và có biểu hiện mua chuộc nhân chứng, gây rất nhiều khó khăn cho công tác điều tra. Song, cơ quan điều tra đã làm khá tốt việc khám nghiệm hiện trường, thu thập đầy đủ dấu vết, tang vật, khám nghiệm tử thi, thương tích bị hại, ghi lời khai nhân chứng, cho đối chất, nhận dạng giữa nhân chứng và bị can ... nên đã có đủ bằng chứng kết tội Vạn cùng đồng bọn và y đã phải chịu hình phạt nghiêm khắc nhất. Dư luận nhân dân rất hoan nghênh việc giải quyết vụ án này.

Tuy nhiên, chất lượng công tác khám nghiệm hiện trường trong một số vụ án còn nhiều thiếu sót, như việc khám nghiệm không theo đúng thủ tục, trình tự luật định, biên bản khám nghiệm ghi không đầy đủ, bỏ sót các dấu vết quan trọng, tang vật chứng không bảo quản chặt chẽ ... dẫn đến xác định phương hướng điều tra và đường lối giải quyết vụ án không đúng. Theo số liệu thống kê năm 2003-2004, trong số các vụ án bị huỷ ở cấp phúc thẩm, có tới 97% là do thiếu sót trong công tác điều tra, trong đó có nhiều vụ thiếu sót trong khám nghiệm hiện trường. Chỉ tính số vụ án vi phạm về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (điều 202- Bộ Luật hình sự) bị huỷ thì có tới 55% số vụ do công tác khám nghiệm hiện trường yếu, có sai sót. Vi phạm trong khám nghiệm hiện trường tuy chưa đến mức phổ biến và nghiêm trọng, nhưng có những trường hợp gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng không tốt đến uy tín các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tình hình này, đòi hỏi các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải chú trọng thực hiện tốt hơn nữa công tác này.





Qua nghiên cứu một số vụ án bị huỷ, phải điều tra lại, chúng tôi thấy công tác khám nghiệm hiện trường thường có một số thiếu sót chủ yếu như sau:


1. Việc thực hiện các quy định về trình tự, thủ tục, thành phần tham gia khám nghiệm:

Theo quy định tại điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1989 và điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì khi khám nghiệm bắt buộc phải có kiểm sát viên, người chứng kiến, có thể cho bị can, bị hại, người làm chứng và mời nhà chuyên môn như giám định viên tham gia. Tuy nhiên, có vụ án việc khám nghiệm không đủ thành phần tham gia, khiến cho việc khám nghiệm thiếu khách quan và có nhiều sai sót. Như vụ “vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, ngày 19/11/2001, ở Hà Nội, thường gọi là “vụ Láng-Hoà Lạc”: Phạm Hồng Quân điều khiển xe ôtô taxi, do đi tốc độ cao, không làm chủ tốc độ đã đâm vào xe đạp do cháu Phạm Phương Linh điều khiển, chở cháu Phạm Thị Anh Thư đi cùng chiều. Hậu quả là cả hai cháu Linh và Thư bị chết. Quá trình khám nghiệm không có kiểm sát viên tham gia. Đáng lưu ý là trong vụ án, các cháu học sinh, bạn của cháu Linh, cháu Thư là nhân chứng quan trọng của vụ án nhưng không được tham dự khám nghiệm với tư cách là nhân chứng. Do đó việc khám nghiệm không bảo đảm tính khách quan. Sau này, chính các cháu đã phản đối không thừa nhận biên bản hiện trường do cơ quan điều tra lập.

Mặt khác, trong trường hợp này, vụ việc có dấu hiệu tội phạm với hậu quả 2 người chết, song cảnh sát giao thông vẫn tiến hành khám nghiệm hiện trường. Việc làm đó, không đúng với Thông tư số 02 ngày 7/1/1995 của Liên ngành Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao (mục 1 phần III) đã quy định rõ trong các vụ vị phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông có dấu hiệu tội phạm, gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản thì lực lượng cảnh sát giao thông chỉ được tiến hành các hoạt động khẩn cấp ban đầu, đồng thời thông báo ngay cho cơ quan điều tra để thực hiện việc khám nghiệm. Do việc khám nghiệm hiện trường không đúng trình tự, thủ tục, thành phần tham dự không đủ dẫn tới khám nghiệm không khách quan, phát sinh các khiếu kiện phức tạp.


2. Việc lập biên bản khám nghiệm:

Điều 129 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 1988 và điều 154 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định khi khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi điều tra viên phải lập biên bản khám nghiệm hiện trường, trong đó phải ghi rõ rõ nội dung các hoạt động tố tụng; những người tiến hành, tham gia hoặc có liên quan đến hoạt động tố tụng; những khiếu nại, yêu cầu, đề nghị của họ. Đây là quy định bắt buộc để bảo đảm việc khám nghiệm được khách quan, chính xác.Tuy vậy, trong thực tế còn có những trường hợp biên bản khám nghiệm được lập một cách rất sơ sài, đơn giản, không thể hiện rõ các hoạt động tố tụng cần thiết; sơ đồ hiện trường không mô tả đầy đủ và chính xác các đặc điểm, kích thước, màu sắc của các sự vật tại hiện trường, nhất là các vật chứng, dấu vết có thể làm chứng cứ của vụ án. Điều tra viên không ghi đủ thành phần tiến hành và tham gia việc khám nghiệm, dẫn đến có trường hợp biên bản lập xong nhưng người có liên quan không đồng tình với biên bản khám nghiệm hiện trường, làm cho việc giải quyết vụ án thêm phức tạp.

Đối với vụ án Huỳnh Văn Nam – Giết người, Cướp tài sản, ở Đồng Nai cũng có nhiều thiếu sót trong việc lập biên bản khám nghiệm hiện trường. Đêm 8/4/1992, Huỳnh Văn Nam và Phạm Minh Phương phục ở khu vực nhà ông Tư Hộ để cướp tài sản của anh Phạm Minh Thông, nhân viên thu tiền điện. Thấy anh Thông đi xe đạp về, Nam chạy ra ôm anh Thông, hai người giằng co nhau. Nam rút dao đâm anh Thông một nhát và đẩy anh xuống bờ sông. Phương đứng bên hỗ trợ Nam. Thấy anh Thông chết, Nam và Phương bỏ chạy. Khám nghiệm hiện trường, cơ quan điều tra có thu thập vết máu dính trên cây cỏ và gửi đi giám định, song không lập biên bản xác nhận việc thu giữ dấu vết máu ở đâu, khi nào và thu như thế nào; biên bản mô tả vết thương của nạn nhân rất sơ sài, dẫn đến không thể xác định được cụ thể tư thế, cách thức bị can đâm nạn nhân; chiếc áo thu giữ của bị can có vết máu, song biên bản thu giữ không mô tả vết máu này. Do đó, khi luật sư đưa ra những lập luận về sự không hợp lý của biên bản hiện trường thì kiểm sát viên rất lúng túng khi tranh luận với luật sư.


Trong vụ Láng-Hoà Lạc, điều đáng chú ý là một số cán bộ trong khi thi hành nhiệm vụ được phân công đã không làm đầy đủ trách nhiệm của mình, vẽ sơ đồ, lập biên bản hiện trường cẩu thả; các số đo, kích thước được tẩy xoá không đúng với thực tế vụ án xảy ra; không thể hiện rõ vị trí xe ôtô va chạm với xe đạp gây tai nạn cũng như vị trí hai nạn nhân nằm, gây nhiều khó khăn cho việc đánh giá chứng cứ vụ án. Do việc khám nghiệm hiện trường cẩu thả, nội dung biên bản không đầy đủ, sơ đồ hiện trường thiếu chính xác, làm phát sinh những khiếu nại rất phức tạp; cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cấp trên mất nhiều thời gian, công sức để khắc phục những thiếu sót, tồn tại đó nhưng vẫn không có tính thuyết phục cao.




Vụ án Phạm Thị út – "Giết người", ở thành phố Hồ Chí Minh: Theo cáo trạng, quá trình điều tra xác định do mâu thuẫn với gia đình ông Trương Ngọc Minh, người thuê nhà của bà Phạm Thị út, nên khoảng 3 giờ sáng ngày 13/9/1993, bà út đã phóng hoả đốt căn phòng của ông Minh, làm ông Minh và bà Huỳnh Thị Nga bị bỏng nặng dẫn đến chết. Đối với chiếc lon thu được ở sau nhà bị cáo, việc mô tả chiếc lon cũng không thống nhất: có văn bản ghi lon loại 0,8 kg còn dính dầu, có văn bản thể hiện lon sơn loại 1 lít, trong còn dính 1 ít xăng. Đối với chiếc lon thu được trong phòng ông Minh, biên bản vụ cháy ngày 13/9/1993, mô tả các lon bia thu được tại phòng ông Minh ghi là có mùi dầu. Nhưng sau đó, trong báo cáo ngày 30/11/1993 cơ quan Công an lại ghi là mùi xăng. Văn bản khám nghiệm ghi lon có dung tích 1 lít, bị cháy ám khói bên trong, có văn bản khác lại ghi lon sắt có nhiều xăng. Chúng ta đều biết, xăng là hoá chất rất nhạy cảm với lửa, khi căn phòng bị cháy như vậy, lượng xăng liệu có còn tồn tại trong chiếc lon ở trong phòng đó, hoặc còn để lại mùi xăng, hay là sẽ cháy hết ? Đây là những mâu thuẫn rất lớn mà sau này kết quả điều tra không được làm rõ.

Đối với vụ vụ án Huỳnh Văn Minh – Giết người, Hiếp dâm, ở Bến Tre: Theo cáo trạng, tối ngày 12/6/1997, Huỳnh Văn Minh lẻn vào nhà chị Nguyễn Thị Ngọc Lan ở cùng ấp để cưỡng hiếp chị Lan. Khi bị chị chống cự quyết liệt y đã giết chết chị Lan. Qua khám nghiệm, phát hiện một số vết chân để lại hiện trường, trong đó có vết trên đệm lót giường. Song cơ quan điều tra không đo đạc kích thước cụ thể vết chân đó để kiểm tra, đối chiếu với vết chân của bị cáo, trên cơ sở đó xác định rõ các vết chân này có phải là chân của thủ phạm hay không.

Vụ Nguyễn Thị Lâm và đồng bọn – Giết người, ở Bình Thuận: Theo cáo trạng, do ghen tức việc chị Dương Thị Mỹ có quan hệ tình ái với chồng là Trần Văn Sáng, nên khoảng 1h15’ngày 19/5/1993, Nguyễn Thị Nhung tổ chức một số người trong gia đình (trong đó có Nguyễn Thị Lâm mẹ đẻ, Huỳnh Văn Nén – anh rể Nhung) đi ra vườn điều (nơi Mỹ hẹn gặp Sáng) để đánh chị Mỹ; hậu quả chị Mỹ bị chết. Biên bản khám nghiệm hiện trường không mô tả đầy đủ, tỉ mỉ đặc điểm dấu vết hiện trường; biên bản ghi có 3 vết máu nhưng không mô tả cụ thể xung quanh có máu trên quần áo của nạn nhân, đất cát, cây cối không. Sau này luật sư cho rằng đây có thể không phải là hiện trường vụ án mà có khả năng nạn nhân bị giết ở nơi khác; điều đó khiến cho vụ án trở nên hết sức phức tạp.

Như vậy, biên bản hiện trường, sơ đồ hiện trường là kết quả của hoạt động khám nghiệm hiện trường của cơ quan điều tra, do điều tra viên thực hiện, do đó đòi hỏi phải được lập theo đúng quy định của pháp luật. Nội dung biên bản khám nghiệm phải được ghi nhận đầy đủ, khách quan, chính xác các hoạt động khám nghiệm, các thông tin về dấu vết vật chứng đã được phát hiện, thu thập. Biên bản khám nghiệm phải ghi nhận đầy đủ thông tin về đồ vật, tài liệu đó ở hiện trường như vị trí, đặc điểm, tình trạng, kích thước ... Do đó, thực tiễn cho thấy nếu biên bản hiện trường không được ghi cụ thể, chính xác, khách quan các dấu vết, vật chứng thì khi thực hiện việc tranh luận tại toà án, bị cáo, người bào chữa ... có thể đưa ra các ý kiến phản bác biên bản khám nghiệm. Lúc đó chắc chắn kiểm sát viên sẽ lúng túng, thậm chí có thể thất bại trước các lập luận của bị cáo, người bào chữa. Kiểm sát viên phải căn cứ vào các điều 95, 125, 150 và 154 Bộ luật tố tụng hình sự để yêu cầu điều tra viên lập biên bản khám nghiệm hiện trường cho chính xác.


3. Việc thu thập các dấu vết, vật chứng của hiện trường:


Điều 125, Bộ Luật tố tụng hình sự năm 1988 và điều 150 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003 đều quy định rõ "Khi khám nghiệm hiện trường, điều tra viên tiến hành chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô hình, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án; ghi rõ kết quả xem xét vào biên bản khám nghiệm trường". Điều tra viên cần xác định cho đúng những dấu vết, những vật chứng liên quan đến vụ án, có ý nghĩa trong việc làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, để từ đó tiến hành thu thập (thu lượm) như: vẽ sơ đồ, chụp ảnh đo đạc, dựng mô hình, thu nhặt các dấu vết, vật chứng cho thật đầy đủ, cụ thể và chính xác, khách quan. Cán bộ khám nghiệm phải ghi nhận đầy đủ thông tin về đồ vật, tài liệu ở hiện trường, như kích thước, màu sắc, chất liệu. Ví dụ thu được dao thì mô tả đó là loại dao gì, dao nhọn hay dao phay, gậy thì dài, đường kính bao nhiêu, bằng loại cây gì, áo thì loại vải gì, màu sắc ...Việc làm đơn giản, cẩu thả trong trường hợp này sẽ dẫn đến những sai sót nghiêm trọng trong việc xác định, đánh giá hành vi phạm tội. Trong vụ án tại đường Láng- Hoà Lạc, khi chụp ảnh hiện trường, cán bộ điều tra không đặt thước đo tỷ lệ. Sau đó sửa chữa, ghi thêm số liệu trên sơ đồ hiện trường, làm cho các dấu vết tại hiện trường bị mất tính khách quan. Có thể thấy rõ điều này trong vụ án Phạm Thị út, một trong những vật chứng quan trọng của vụ án là chiếc thang tre được cho là phương tiện để bị can trèo lên tường nhà và tạt xăng xuống phòng nạn nhân thì tuy có chụp ảnh nhưng lại không được thu giữ.




Vụ Huỳnh Văn Nam ở Đồng Nai, theo kết luận điều tra trong quá trình thực hiện tội phạm bị cáo có sử dụng chiếc xe đạp để đi và như vậy, chiếc xe là phương tiện phạm tội, song cơ quan điều tra không thu giữ chiếc xe đạp này. Không thu thập dấu vân tay hay dấu vết khác trên con dao thu tại hiện trường, dẫn đến không khẳng định được có phải con dao của Nam mà y dùng để gây án hay không.

Trong vụ Nguyễn Thị Lâm ở Bình Thuận, cơ quan điều tra không thu được lá thư của chị Dương Thị Mỹ gửi cho tình nhân là Trần Văn Sáng nhưng cơ quan điều tra lại kết luận về lá thư đó mà Nguyễn Thị Nhung vợ Sáng cùng một số người trong gia đình đã căn cứ vào đó để tổ chức đánh, chém chị Mỹ. Cơ quan điều tra cũng không thu được con dao mà bị cáo Nén khai dùng để chém nạn nhân. Sau này, tiến hành khai quật con dao theo lời khai của Nén, thì vật thu được khác nhiều so với con dao Nén đã khai, không đảm bảo giá trị chứng minh. Đồng thời với kích thước con dao đó thì không phù hợp với vết chém trên đầu chị Mỹ. Trong vụ án Phạm Hồng Quân, khi khám nghiệm hiện trường cơ quan điều tra không kiểm tra xem khi Quân điều khiển phương tiện gây tai nạn, có sử dụng chất kích thích hay không. Do đó trong quá trình thu thập các dấu vết, vật chứng tại hiện trường, kiểm sát viên phải chú ý yêu cầu điều tra viên thu thập đầy đủ các dấu vết, vật chứng tại hiện trường, mọi chi tiết dù nhỏ nhưng liên quan đến vụ án phải được thu thạp đầy đủ. Nếu phát hiện điều tra viên bỏ sót các tài liệu, vật chứng thì yêu cầu được thu thập đầy đủ.


4. Việc bảo quản tang vật chứng, tài liệu, dấu vết thu tại hiện trường:

Việc thu giữ vật chứng quan trọng bao nhiêu thì việc quản lý vật chứng cũng càng quan trọng bấy nhiêu; vật chứng, tài liệu, dáu vết thu được tại hiện trường là những chứng cứ vô cùng quan trọng giúp cho điều tra viên, kiểm sát viên nghiên cứu, khai thác các thông tin phục vụ cho điều tra. Vật chứng thu được nhưng không bảo quản, để mất mát hoặc thay đổi hình dạng thì không còn ý nghĩa chứng minh. Khoản 2 điều 75 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: vật chứng phải được bảo đảm nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn và hư hỏng".

Trong thực tế vẫn còn những trường hợp cơ quan điều tra không quản lý, bảo quản tốt tang vật chứng thu thập được, đã để thất lạc, không tìm lại được. Vụ Nguyễn Thị Lâm ở Bình Thuận, qua khám nghiệm tử thi, cơ quan điều tra đã thu được mẫu tóc, dép của nạn nhân, nhưng sau đã để mất, gây khó khăn cho việc xác định rõ tung tích của nạn nhân, có đúng là chị Dương Thị Mỹ hay không. Chiếc bông tai thu tại hiện trường, điều tra viên đã tự tiện đem trả cho gia đình người bị hại, trong khi đó cơ quan điều tra không giám định để xác định rõ chủ nhân của nó có đúng là của người bị hại hay không.

Trong vụ án Huỳnh Văn Nam, cơ quan điều tra thu hai chiếc cúc trên hiện trường, nhận định một chiếc của bị cáo, một chiếc của nạn nhân; nhưng khi thu giữ không niêm phong, không đánh dấu cụ thể nên cuối cùng không xác định được chiếc cúc nào là của ai.

Do đó kiểm sát viên phải yêu cầu điều tra viên có trách nhiệm quản lý chặt chẽ các vật chứng, tài liệu, dấu vết đã thu được tại hiện trường. Thực tiễn cho thấy có nhiều vụ án vật chứng tài liệu, dấu vết bị mất nhưng không kết luận được mất ở khâu nào, ảnh hưởng rất lớn đến việc đánh giá chứng cứ vụ án. Do đó quá trình nghiên cứu, khai thác hoặc đựoc chuyển dịch theo hồ sơ vụ án giữa các cơ quan tố tụng, vật chứng, tài liệu dấu vết phải được lập biên bản giao nhận chặt chẽ.


5. Việc giám định tang vật chứng, tài liệu, dấu vết:

Theo điều 155 Bộ Luật tố tụng hình sự, cơ quan điều tra có quyền trưng cầu giám định khi xét thấy cần thiết cho việc điều tra vụ án. Bên cạnh đó còn quy định một số trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, đó là các trường hợp khi cần xác định nguyên nhân chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động; tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong trường hợp có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc người bị hại trong trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn đối với những tình tiết của vụ án; tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại, nếu việc đó có ý nghĩa đối với vụ án và không có tài liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có sự nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; chất độc, chất ma tuý, chất phóng xạ, tiền giả.

Trong thực tế, sau khi khám nghiện hiện trường, có những chi tiết cần phải giám định để có kết luận của cơ quan chuyên môn, nhưng nhiều trường hợp, cơ quan điều tra đã không trưng cầu giám định hoặc việc giám định không kịp thời và thiếu chính xác, dẫn đến những khó khăn trong việc xác định các chứng cứ.

Trong vụ Phạm Thị út, cơ quan điều tra thu được hai chiếc lon ở hiện trường, có tài liệu ghi có mùi xăng, có tài liệu ghi là đựng dầu, trong khi đó không giám định ngay lon có chứa xăng hay dầu, vì vậy không xác định được chất gây cháy. Vụ Huỳnh Văn Minh, không giám định để xác định rõ nguyên nhân gây nên các vết thương trên thân thể bị cáo. Sau này, bị cáo khai những vết thương đó của y không phải là do móng tay của người bị hại cào khi bị y cưỡng hiếp mà do là do gai của cây cam cào khi bị cáo hái cam, khiến cho việc xác định hành vi phạm tội của y trở nên phức tạp hơn. Vụ Huỳnh Văn Nam, không tiến hành giám định dấu vân tay, dấu vết khác trên con dao thu tại hiện trường; dấu vết trên chiếc giỏ (túi) của nạn nhân và những đồ vật liên quan đến vụ án cũng không được giám định rõ để xác định thủ phạm gây án.

Trong vụ Nguyễn Thị Lâm, cơ quan điều tra đã không cho giám định vân tay và ADN để xác định rõ nạn nhân là ai, quá tin vào việc nhận dạng của người nhà nạn nhân (mới 15 tuổi), dẫn đến sau này có những nghị ngờ về danh tính của nạn nhân. Cho nên sau khi tiến hành điều tra lại đã không khắc phục được những thiếu sót trong quá trình điều tra trước đây, các chứng cứ thu được đã không đảm bảo tính có căn cứ và tính hợp pháp theo luật định để chứng minh hành vi phạm tội của các bị can, do vậy đã phải đình chỉ điều tra.

Qua những dẫn chứng nêu trên, có thể nói trong nhiều vụ án, cán bộ làm nhiệm vụ khám nghiệm hiện trường tỏ ra rất thiếu tính chuyên nghiệp trong thực thi công việc; cẩu thả, tuỳ tiện, thậm chí ấu trĩ khi xử lý các vấn đề phát sinh, dẫn đến những thiếu sót trong quá trình khám nghiệm. Hậu quả là nhiều vụ án, công tác khám nghiệm không làm rõ được một cách khách quan, toàn diện về hiện trường, dẫn đến những khó khăn lớn trong việc đánh giá chứng cứ cũng như trong việc xác định đường lối giải quyết vụ án. Khi vụ án được truy tố, xét xử, những thiếu sót này là cơ sở để bị can, bào chữa phản phản bác, báo chí chỉ trích; trong khi đó việc tranh luận của kiểm sát viên thiếu thuyết phục; vì vậy không ít vụ án phải huỷ để điều tra lại. Tuy nhiên, việc điều tra lại, trong đó có việc xem xét lại hiện trường nhiều trường hợp rất khó khăn, do hiện trường đã thay đổi, những người chứng kiến vụ án cũng không còn nhớ chính xác từng sự việc xảy ra. Do vậy nhiều vụ án phải đình chỉ hoặc tuyên bị cáo không phạm tội.

Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, song theo chúng tôi, chủ yếu do năng lực, trình độ của cán bộ thực thi nhiệm vụ còn nhiều hạn chế, yếu kém trong nhận thức và vận dụng các kỹ năng nghiệp vụ vào công việc cụ thể trong khám nghiệm hiện trường. Bên cạnh đó, tinh thần trách nhiệm của số cán bộ này cũng chưa tốt, chưa đi sâu phát hiện và làm rõ những dấu hiệu, những yếu tố của hiện trường để làm chứng cứ cho việc giải quyết vụ án. Cán bộ lãnh đạo của cơ quan điều tra ở nhiều nơi chưa thật sâu sát, cụ thể trong chỉ đạo công tác khám nghiệm hiện trường. Viện kiểm sát, trong nhiều trường hợp cũng chưa làm hết trách nhiệm của mình trong giám sát, kiểm tra nhằm đảm bảo cho việc khám nghiệm hiện trường theo đúng quy định của pháp luật.

Để thực hiện tốt công tác khám nghiệm hiện trường, góp phần giải quyết tốt các vụ án xảy ra trong thời gian tới, chúng tôi đề nghị một số giải pháp sau:

- Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án các cấp cần phối hợp tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, rút ra những việc đã làm được, những khuyết điểm, thiếu sót trong công tác này và đề ra biện pháp cụ thể để khắc phục.

- Viện kiểm sát các cấp nhất thiết phải cử kiểm sát viên trực tiếp kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường đối với tất cả các trường hợp; lãnh đạo cùng với kiểm sát viên trực tiếp tham gia những vụ quan trọng, không quả tang ... đúng theo yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại các chỉ thị công tác hàng năm, đảm bảo việc khám nghiệm hiện trường có chất lượng, hiệu quả thiết thực và đúng theo quy định của pháp luật (về trình tự thủ tục khám nghiệm, xây dựng biên bản khám nghiệm, thu thập chứng cứ, giám định, bảo quản tang vật chứng và thực nghiệm điều tra).

- Tăng cường các biện pháp bồi dưỡng, quản lý, giáo dục nhằm nâng cao trình độ và ý thức trách nhiệm của cán bộ làm công tác khám nghiệm hiện trường. Tổ chức các lớp tập huấn chuyên sâu về công tác khám nghiệm hiện trường giúp cho cán bộ học tập, nghiên cứu nâng cao năng lực nghiệp vụ, thực hiện tốt các nhiệm vụ chuyên môn cụ thể về khám nghiệm hiện trường.

- Vì hiện trường vụ án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc đánh giá chứng cứ và kết luận giải quyết vụ án, Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục việc khám nghiệm, các chủ thể tham gia khám nghiệm. Tuy nhiên, tại Thông tư số 01/2006/TT-BCA (C11) ngày 12/1/2006 của Bộ Công an hướng dẫn điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự, tại nội dung thứ 3 có ghi: "Để công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi có kết quả, cơ quan điều tra mời (hoặc trưng dụng) những người có kiến thức chuyên môn trong từng lĩnh vực cụ thể để tham gia khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, như cán bộ kỹ thuật hình sự, bác sĩ pháp y, cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, kỹ sư đường sắt, kỹ sư ngành hàng không v.v...".

Theo quy định tại điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự thì các nhà chuyene môn kỹ thuật trên đây cơ quan điều tra có thể mời hoặc không mời, tuỳ vào tính chất của vụ án. Nhưng có hai chủ thể cơ quan điều tra bắt buộc phải báo cho họ để có mặt là kiểm sát viên và người chứng kiến. Nhưng Thông tư lại không quy định. Theo suy nghĩ của chúng tôi: Việc tham gia khám nghiệm hiện trường theo quy định của pháp luật có điều tra viên, kiểm sát viên, người làm chứng, có thể cho bị can, người bị hại, người làm chứng và mời nhà chuyên môn tham dự việc khám nghiệm. Như vậy, điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự điều chỉnh hoạt động của nhiều chủ thể liên quan đến nhiều cơ quan. Do đó Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và các cơ quan có liên quan cần xây dựng thông tư để hướng dẫn thực hiện điều 150, điều 151 Bộ luật tố tụng hình sự./.

   Nhiều trường hợp, cán bộ thừa hành nhiệm vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các thao tác nghiệp vụ cần thiết trong khám nghiệm hiện trường. Vụ Nguyễn Thị Lâm, chiếc bông tai thu tại hiện trường chưa được giám định để xác định rõ chủ nhân, nhưng điều tra viên lại tự tiện đem trả cho gia đình nạn nhân. Vụ Huỳnh Văn Nam, thu tại hiện trường hai chiếc cúc, được nhận định một chiếc của nạn nhân, một chiếc của thủ phạm, nhưng lại không niêm phong, không đánh dấu, nên cuối cùng không xác định rõ được chiếc cúc nào là của ai. Vết máu trên áo của Nam, bị can khai là máu của chị ánh vợ Nam (do Nam cứu chữa vợ bị thương từ trước nên có dính máu của vợ); cơ quan điều tra không giám định được nhóm máu trên áo và nhóm máu của chị ánh nhưng lại xác định rằng vết máu trên áo Nam không phải máu của chị ánh mà là máu của nạn nhân (Thông). Vụ Phạm Thị út, chất gây cháy trong vụ án chưa được giám định rõ, nhưng cán bộ Công an khi thì nói có mùi xăng, khi nói có mùi dầu, khiến cho việc điều tra, xác định rõ chất gây cháy trở nên hết sức khó khăn.

Quân: Khi khám nghiệm hiện trường không lấy lời khai Quân ngay, không kiểm tra có hay không chất kích thích, biên bản khám nghiệm không ghi người phụ trách khám nghiệm, không có dại diện Viện kiểm sát. Giám định tốc độ chỉ ghi tốc độ tối thiểu 48km/h, giám định bổ sung ghi không đủ cơ sở xác định tốc độ của xe. Không có bản ảnh hiện trường. Thực nghiệm lại: không đủ cơ sở xác định hai vết phanh này có phải chỉ do một xe ôtô tạo ra hay không, không thể tiến hành thực nghiệm để xác định tốc độ tối đa của xe ôtô và điểm va chạm giữa xe ôtô với xe đạp. Xe có sự chuyển hướng sang bên phải trước khi đâm vào xe đạp, tại sao chuyển hướng ? Viện khoa học hình sự giải thích kết luận giám định 2 vết phanh này do xe Quân gây ra – không thoả đáng.

Biên bản hiện trường và sơ đồ hiện trường được lập không đúng quy định tại điều 125, điều 78 BLTTHS 88 không có giá trị như một chứng cứ theo quy định của điều 48 BLTTHS.

Sơ đồ hiện trường chưa thể hiện hết dấu vết liên quan đến vụ án (địa điểm va chạm giữa xe ôtô và xe đạp gây tai nạn, vị trí các nạn nhân nằm, vết phanh mô tả chưa chính xác.

Dấu vết hằn, xước, dính chất mầu đen trên xe 29N-0165 (xe Quân) có chiều từ trước về sau, chếch từ dưới lên, không thể hiện rõ đặc điểm nên không kết luận được vật cụ thể gây ra dấu vết này.

Vụ Vườn điều: Không nhận dạng nạn nhân, không có biên bản nhận dạng, không lấy dấu vân tay, trái với quy định tại điều 114 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 1988. Nhận dạng trực quan, không cho chồng, con trai đã thành niên mà cho bạn chị Mỹ (chị Hoàng) và cháu Hạnh con chị Mỹ mới 15 tuổi nhận dạng. Không thu thư. Dao phay Nén khai chuôi bằng gỗ tròn dài khoảng 10cm, lưỡi dao dài khoảng 25cm, mũi dao hơi nhọn, bề rộng lưới 7- 8cm đựng trong túi ximăng khi chôn. Biên bản thu giữ 19/11/98 ghi kim loại hình dao phay, dài sống dao 28cm, lưỡi 23cm, lưỡi hình cung (không thể hiện túi ximăng và gỗ phần cán dao bị tiêu huỷ). Khám nghiệm hiện trường xác định mở rộng hiện trường không phát hiện dấu vết gì, nhưng sau một ngày lại thu giữ 1 con dao rựa cách vị trí tử thi 6m, nhưng không làm rõ có quan hệ như thế nào với vụ án. Tóc thu ở hiện trường để thất lạc. Chiếc bông tai thu tại hiện trường chưa được giám định và Cao Văn Hùng điều tra viên trả cho gia đình chị Mỹ là trái với điều 57,58 Bộ Luật TTHS.. Dẫn giải Nén chỉ nơi cất giấu tang vật, nhưng biên bản thu giữ vật chứng 19/11/98 không có chữ ký của Nén, không đúng điều 78 Bộ Luật tố tụng hình sự.

Vụ Nam: Trong khi giằng co giữa anh Thông và Nam, anh Thông kéo áo Nam làm đứt một cúc áo của Nam. Khám nghiệm hiện trường thu được một chiếc cúc, song đó không phải là cúc cá biệt, mặc dù giám định kỹ thuật xác định cúc áo thu được ở hiện trường với cúc áo thu được trên áo của Nam là cùng một loại.Trong khi đó Biên bản xem xét vật chứng 6/6/1996 xác nhận cúc áo tang vật của vụ án bị vỡ, có mảnh đục, không trong như cúc áo của Nam. Kết luận giám định trên áo Nam có vết máu nhưng biên bản thu giữ áo không mô tả có dấu vết gì trên áo và cũng không xác định được máu đó thuộc nhóm máu nào. (biên bản thu giữ áo 12/4/1992).

Không mổ tử thi để xác định thời điểm chết.

Ngày 9/4/1992, cơ quan điều tra phát hiện thu hai chiếc cúc trên hiện trường, một chiếc màu trắng, 1 chiếc cúc áo của nạn nhân. Việc thu giữ không được niêm phong, không được đánh dấu, nên không xác định được chắc chắn hai chiếc cúc là của ai.

Không thu thập dấu vân tay hay dấu vết khác trên con dao thu tại hiện trường, không cho nhân chứng Huỳnh Tấn Chào nhận dạng con dao. (dẫn đến không khẳng định được có phải con dao của Nam và y dùng để gây án hay không).

23/4/1992, Nam khai bị cận thị, tối khoảng 2-3 mét nhìn không biết là ai, nhưng cơ quan điều tra không cho kiểm tra ngay tình tiết này. Mãi đến 17/8/1998, theo yêu cầu của Toà án tối cao, cơ quan điều tra cho Nam đi giám định mắt thì thị lực mỗi mắt của Nam là 1/10, phải dùng kính 6D mới nhìn được bình thường. Mâu thuẫn với tình tiết: chúng nhìn thấy Thông từ xa. Lại mâu thuẫn với việc Nam đi nghĩa vụ quân sự.

Nam thuận tay phải, bàn tay này mất một ngón, một ngón bị liệt trước khi vụ án xảy ra, nắm đồ vật không chặt, gây nhiều khó khăn trong sinh hoạt, vậy Nam ôm Thông như thế nào, bằng hai tay hay một,nếu ôm một tay thì tay nào đâm. Mô tả vết thương sơ sài, không rõ hướng đâm thế nào, do tay nào thực hiện. Cơ quan điều tra không cho thực nghiệm để diễn lại hành vi.

Không tiến hành xác định dấu vân tay, dấu vết khác trên con dao thu tại hiện trường hoặc chiếc giỏ (túi) của nạn nhân và những đồ vật liên quan đến vụ án (điều 125 BLTTHS).

Không tiến hành thực nghiệm điều tra, diễn lại hiện trường (điều 128 BLTTHS) để xác định rõ diễn biến của vụ việc.

Việc thu thập một số chứng cứ không thể hiện trong biên bản: không có biên bản thu dấu máu tại hiện trường nhưng trong quyết định gửi đi giám định ngày 25/4/1992 lại gửi đi để xác minh máu dính trên lá cỏ, là máu người hay máu vật. Máu dính trên lá cỏ thu ở đâu, thu từ bao giờ, thu như thế nào, ai thu, không được thể hiện đúng theo quy định của pháp luật. Thu áo Nam không mô tả vết máu trên áo, không niêm phong. Đến 25/4/1992 mới đưa áo đi giám định, không xác định được nhóm máu, cơ quan điều tra lại khẳng định đó là máu của nạn nhân. Thu giữ những vật khác như cúc áo, con dao ... đều không niêm phong (theo quy định tại điều 57 BLTTHS).

Không làm rõ để thu giữ chiếc xe đạp là phương tiện các bị can dùng để phạm tội.

Nam khai máu dính trên áo Nam là máu chị ánh vợ Nam nhưng không giám định máu chị ánh mà lại kết luận đó không phải máu của chi ánh.


Vụ út: Biên bản vụ cháy 13/9/93 ghi khi đến có mùi dầu bốc lên nhiều, trong khi báo cáo số 1034 ngày 30/11/93 của cơ quan Phòng cháy chữa cháy lại ghi sau khi vụ cháy được dập tắt, phòng ông Minh còn mùi xăng và chiếc lon sắt 1 lít thu được tại phòng ông Minh có mùi xăng có cùng loại với chiếc lon thiếc castrol do bà Nga mang về không ? Căn cứ vào đâu xác định có mùi xăng, giám định ?

Số xăng dầu thu được tại nhà bị cáo út là 1 lít xăng đựng trong can 2 lít, 1 lít dầu đựng trong can 4 lít, chưa xác định được bị cáo mua khi nào, đã sử dụng bao nhiêu ?

Chiếc thang tre trong phòng bị cáo út có từ khi nào, do ai đưa vào, chiếc thang này hiện ở đâu, có vết cháy không, chưa được làm rõ.

Đồ đạc của bị cáo út từ trong nhà chuyển ra như thế nào.

Không giám định tang vật (2 chiếc lon thiếc) để xác định chất gây cháy.

Không có văn bản pháp lý nào khẳng định chất gây cháy là xăng hay dầu và giải thích về kết quả thu nhận ban đầu về mùi xăng hay mùi dầu.

Chưa tổ chức thực nghiệm điều tra việc chuyển đồ đạc, tài sản của bị cáo út và con ra ngoài trong thời gian xảy ra cháy.

Thực nghiệm điều tra không phải hiện trường gốc, không có bức tường gạch ngăn giữa 2 phòng như thật, người thực nghiệm là công an chứ không phải bị can, cây tháng dùng để thực nghiệm là thang sắt, không phải thang tre, không gian thực nghiệm là ban ngày, trong khi sự việc xảy ra là ban đêm.

Lon thu được ở sau nhà bị cáo: có văn bản ghi lon loại 0,8 kg còn dính dầu, có văn bản thể hiện lon sơn loại 1 lít, trong còn dính 1 ít xăng. Lon thu được trong nhà ông Minh: có văn bản ghi lon có dung tích 1 lít, bị cháy ám khói bên trong, văn bản thì ghi lon sắt có nhiều xăng.

Vụ Minh: Biên bản khám nghiệm hiện trường có ghi thu dịch trong âm hộ để nghiên cứu giám định, song tại hồ sơ không có kết quả xét nghiệm tinh trùng thu ở âm đạo nạn nhân. Khám nghiệm hiện trường xác định được dấu vết bàn chân có đo kích thước, có thu giữ 1 chiếc đệm lót cũng có dấu vết bàn chân, song chưa xem xét làm rõ những dấu vết chân này, có phải của Minh không. Biên bản khám dấu vết trên thân thể bị cáo không kết luận các vết thương trên thân thể bị cáo là do gai hay móng tay của nạn nhân. Trong khi đó khám nghiệm tử thi xác định các đầu ngón tay tử thi cắt ngắn.

Vụ Huỳnh Văn Nam – giết người, cướp tài sản, ở Đồng Nai. Huỳnh Văn Nam bàn với Phạm Minh Phương đi phục để cướp tài sản của anh Phạm Minh Thông, nhân viên thu tiền điện. Đếm 8/4/1992, Nam và Phương phục ở khu vực nhà ông Tư Hộ. Thấy anh Thông đi xe đạp về, Nam chạy ra ôm anh Thông, hai người giằng co nhau. Nam rút dao đâm anh Thông một nhát và đẩy anh xuống bờ sông. Phương đứng bên hỗ trợ Nam. Thấy anh Thông chết, Nam và Phương bỏ chạy.

Vụ Phạm Thị út – giết người, ở thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình điều tra xác định do mâu thuẫn với gia đình ông Trương Ngọc Minh, người thuê nhà của Phạm Thị út, nên khoảng 3 giờ sáng ngày 13/9/1993, út đã thực hiện hành vi phóng hoả đốt căn phòng của ông Minh, làm ông Minh và bà Huỳnh Thị Nga bị bỏng nặng dẫn đến chết.

Vụ Huỳnh Văn Minh – giết người, hiếp dâm, ở Bến Tre. Tối ngày 12/6/1997, Huỳnh Văn Minh lẻn vào nhà chị Nguyễn Thị Ngọc Lan ở cùng ấp để cưỡng hiếp chị Lan nhưng bị chị chống cự nên Minh đã giết chết chị Lan.

Vụ Nguyễn Thị Lâm và đồng bọn – giết người, ở Bình Thuận. Do ghen tức việc Dương Thị Mỹ có quan hệ tình ái với chồng là Trần Văn Sáng, nên khoảng 1h15’ngày 19/5/1993, Nguyễn Thị Nhung đã tổ chức một số người trong gia đình (trong đó có Nguyễn Thị Lâm mẹ đẻ, Huỳnh Văn Nén – anh rể Nhung) đi ra vườn điều (nơi Mỹ hẹn gặp Sáng) để đánh Mỹ, hậu quả Mỹ bị chết.

Vụ Phạm Hồng Quân - Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, ở Hà Nội. Khoảng 16h30’ ngày 19/11/2001, Phạm Hồng Quân điều khiển xe ôtô taxi của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sơn Dương, trên đường Láng – Hoà Lác theo hướng về Hà Nội; do đi tốc độ cao, không làm chủ tốc độ đã đâm vào xe đạp do cháu Phạm Phương Linh điều khiển, chở cháu Phạm Thị Anh Thư đi cùng chiều. Hậu quả cả hai cháu Linh, Thư bị chết.

1. Khám nghiệm không đúng trình tự thủ tục luật định, không đúng, không đủ thành phần.Văn bản không đảm bảo (không lập, lập nội dung không phản ánh đầy đủ, chính xác sự vật, không đủ thành phần ký văn bản ...).

2. Không thu thập đầy đủ dấu vết

3. Không nhận dạng, nhận dạng ghi không đầy đủ, không chính xác đặc điểm của tang vật. Không tiến hành giám định ngay.

4. Không bảo quản tang vật, để mất mát.

5. Không khám nghiệm, thực nghiệm lại hiện trường. Khám nghiệm lại, thực nghiệm không đúng.

Không thực hiện đúng các thao tác nghiệm vụ, ấu trĩ, luộm thuộm, cẩu thả.


                                                                                                                   TS. Dương Thanh Biểu

2 nhận xét:

  1. Xin cho minh hoi:" neu gia dinh cua nan nhan tu choi , khong dong y cho khám nghiệm tử thi " thi việc khám nghiệm van duoc tien hanh theo đúng quy định của pháp luật hay la se khong kham nghiem? Xin chan thanh cam on.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Theo quy định tại Điều 151. Khám nghiệm tử thi luật hình sự 2015
      “ Việc khám nghiệm tử thi do Điều tra viên tiến hành có bác sĩ pháp y tham gia và phải có người chứng kiến.
      Trong trường hợp cần phải khai quật tử thi thì phải có quyết định của Cơ quan điều tra và phải thông báo cho gia đình nạn nhân biết trước khi tiến hành. Việc khai quật tử thi phải có bác sỹ pháp y tham gia.
      Khi cần thiết có thể triệu tập người giám định và phải có người chứng kiến.
      Trong mọi trường hợp, việc khám nghiệm tử thi phải được thông báo trước cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Kiểm sát viên phải có mặt để tiến hành kiểm sát việc khám nghiệm tử thi.”
      Luật Hình Sự không có quy định khám nghiệm tử thi, phải có sự đồng ý của gia đình. Do vây, trong trường hợp gia đình không đồng ý, thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn có thể tiến hành khám nghiệm tử thi theo quy định của pháp luật.

      Chào Vinh Vương

      Xóa