Thứ Năm, 24 tháng 9, 2015

Một số ý kiến đối với dự thảo BLHS về nhóm tội phạm chức vụ và các tội xâm phạm hoạt động tư pháp



Từ khi thành lập nước đến nay, Đảng và Nhà nước luôn đề cao và thực hiện chính sách nhất quán chống tham ô, lãng phí, tham nhũng, tệ quan
liêu, hách dịch, cửa quyền của cán bộ trong bộ máy công quyền. Chính sách nhất quán này được thể hiện trong pháp luật hình sự Việt Nam. Các hành vi tham nhũng được coi là những tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng quy định trong Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa năm 1970 và Pháp lệnh trừng trị các tội hối lộ năm 1980. BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) vẫn kế thừa các quy định về chống tham nhũng của các văn bản pháp luật trước đó. Căn cứ vào các văn bản pháp luật quan trọng này, các Tòa án đã đưa ra xét xử rất nhiều các vụ án tham nhũng, góp phần đấu tranh, ngăn chặn, giảm bớt tình trạng tham nhũng. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh với các tội phạm về tham nhũng, một loại tội phạm được coi là quốc nạn trong những năm qua còn rất nhiều hạn chế. Tệ nạn tham nhũng ngày càng nặng nề và là nỗi bức xúc, thậm chí làm giảm đi niềm tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Tham nhũng không chỉ trong lĩnh vực công mà đã và đang phát triển trong lĩnh vực tư. Có nhiều nguyên nhân làm cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng kém hiệu quả, trong đó có nguyên nhân về việc điều tra, truy tố, xét xử chưa đáp ứng yêu cầu và các biện pháp đấu tranh, xử lý chưa đủ mạnh. Cũng không thể không đề cập tới nguyên nhân từ sự yếu kém, buông lỏng quản lý, thậm chí là nể nang, bao che của một số người có chức có quyền. Cũng có ý kiến cho rằng quy định của pháp luật chưa đầy đủ, chưa đủ mạnh, chưa thật nghiêm để trừng trị loại tội phạm này. Chúng tôi cho rằng ý kiến này có phần đúng và cần nghiên cứu để sửa đổi một số quy định của pháp luật về đấu tranh chống tham nhũng, nhưng về cơ bản các quy định của BLHS đối với các tội phạm về chức vụ không phải là không đủ mạnh, đủ nghiêm để xử lý các tội phạm tham nhũng. I. Chương XXIII: Các tội phạm về chức vụ 1. Điều 364: khái niệm tội phạm về chức vụ Điều 364 của Dự thảo sửa Điều 277 BLHS hiện hành, cấu tạo thành 4 khoản, trong đó có khoản 4 là khái niệm rất mới, mở rộng phạm vi xử lý đối với các hành vi tham nhũng trong khu vực tư. Cụ thể như sau: “1. Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức Tội phạm về chức vụ bao gồm các tội phạm tham nhũng và các tội phạm về chức vụ khác quy định tại Chương này. 2. Các tội phạm tham nhũng là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện nhiệm vụ vì mục đích tư lợi. 3. Người có chức vụ quy định tại khoản 2 Điều này là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ. 4. Các tội phạm về chức vụ trong khu vực ngoài nhà nước tại Chương này bao gồm: Tội tham ô tài sản, Tội nhận hối hộ, Tội đưa hối lộ, Tội môi giới hối lộ". Quy định này đáp ứng được yêu cầu hình sự hóa các hành vi tham nhũng trong lĩnh vực tư của Công ước của Liên hợp quốc về phòng chống tham nhũng. Đó là các hành vi tham ô tài sản trong khu vực tư, các hành vi về hối lộ công chức nước ngoài, công chức của các tổ chức quốc tế đã và đang có chiều hướng phát triển ở nước ta. Chúng tôi đánh giá cao việc BLHS đã mở rộng phạm vi xử lý hành vi tham nhũng này, vừa đảm bảo trừng trị tội phạm, đáp ứng yêu cầu của Công ước, vừa phù hợp với nền kinh tế hiện nay, bảo đảm sự bình đẳng của các chủ thể kinh tế; tài sản trong lĩnh vực tư cũng được Nhà nước bảo vệ như tài sản trong lĩnh vực công. Tuy nhiên, việc sửa đổi và bố cục của Điều luật này chưa thật hợp lý và có phần lủng củng. Khái niệm tội phạm về chức vụ quy định tại Điều 277 BLHS hiện hành là chặt chẽ, hợp lý. Theo chúng tôi chỉ cần bố cục lại mà không sửa như dự thảo. Cụ thể như sau: "Điều 364: Khái niệm tội phạm về chức vụ 1. Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện nhiệm vụ vì mục đích tư lợi. Người có chức vụ nói trên đây là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ. 2. Các tội phạm về chức vụ trong khu vực ngoài Nhà nước tại Chương này bao gồm: Tội tham ô tài sản, Tội nhận hối lộ, Tội đưa hối lộ, Tội môi giới hối lộ." 2. Điều 365: Tội tham ô tài sản So với Điều 278 BLHS hiện hành thì Điều luật này đã sửa đổi ở một số quy định, cụ thể như sau: - Một là: nâng mức tiền bị chiếm đoạt từ 5 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng trong cấu thành cơ bản so với quy định tại BLHS hiện hành, tức là đã phi tội phạm hóa các hành vi tham ô từ 01 triệu đồng đến dưới 05 triệu đồng. - Hai là: bổ sung hình phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 300.000 triệu đồng và hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm trong cấu thành cơ bản. - Ba là: nâng mức tiền bị chiếm đoạt quy định tại khoản 2 từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; khoản 3 từ trên 500 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng, khoản 4 từ 1 tỷ đồng trở lên. - Bốn là: Nâng mức phạt tiền là hình phạt bổ sung từ 30 triệu đồng đến 100 triệu đồng. Có quan điểm cho rằng trong khi cuộc đấu tranh chống tham nhũng đang rất kém hiệu quả mà Luật lại sửa theo hướng nhẹ đi thì không phù hợp với thực tiễn. Chúng tôi cho rằng, đấu tranh chống tham nhũng không phải cứ áp dụng hình phạt tù thật nặng mới có hiệu quả cao. Thực tiễn xét xử đã cho thấy có rất nhiều vụ án, số tiền chiếm đoạt trong tội tham ô tài sản không lớn, chỉ trên 2 triệu đồng, nhưng vì Luật quy định không có hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ đồng thời chịu áp lực của dư luận, nên mặc dù người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng Tòa án vẫn phải áp dụng hình phạt tù, thậm chí không dám cho hưởng án treo. Trong tội tham ô tài sản, việc thu hồi lại tài sản đã bị chiếm đoạt là cần thiết, nhưng không phải là quan trọng nhất; có ý kiến cho rằng bỏ hình phạt tử hình của tội này và nâng hình phạt tiền thật cao trong các cấu thành tăng nặng. Chúng tôi không đồng tình với ý kiến này vì nếu tham ô tài sản có giá trị lớn, rất lớn, đặc biệt lớn mà chỉ phạt tiền, chỉ chú trọng đến thu hồi tài sản thì không có tác dụng đấu tranh mạnh mẽ với tệ nạn tham nhũng và cũng không được sự đồng tình của dư luận chung. Các tình tiết để nộp lại một phần hoặc toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt chỉ là tình tiết giảm nhẹ để Tòa án xem xét khi quyết định hình phạt. 3. Điều 366: Tội nhận hối lộ So với Điều 279 BLHS hiện hành thì điều luật này có những sửa đổi quan trọng như sau: - Một là: trong cấu thành cơ bản quy định: "Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, đòi, nhận hoặc sẽ nhận dưới bất kỳ hình thức nào, bất kỳ lợi ích nào…" Đây là cấu thành hình thức, chỉ cần hai bên có sự thỏa thuận trước về việc giao nhận tài sản hoặc chỉ cần có hành vi "đòi" hối lộ dù đã nhận, sẽ nhận hoặc bên bị đòi hối lộ có thỏa thuận hay không thì tội phạm đã hoàn thành. Chúng tôi cho rằng đây là một quy định mới, có tác dụng mạnh mẽ trong đấu tranh chống tham nhũng, đặc biệt là chống tệ nạn sách nhiễu, đòi hối lộ đang là quốc nạn ở Việt Nam. Tuy nhiên, không nên bỏ quy định "trực tiếp hoặc qua trung gian" của Điều 279 vì đây là quy định về hành vi khách quan. Chúng tôi đề nghị sửa đổi như sau: "Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian, đòi, nhận hoặc sẽ nhận dưới bất kỳ hình thức nào…". - Hai là: Điều luật không chỉ bó hẹp lợi ích vật chất mà mở rộng việc chiếm đoạt rộng hơn "bất kỳ lợi ích nào", tức là bao gồm cả lợi ích vật chất, lợi ích phi vật chất. Việc mở rộng phạm vi của việc chiếm đoạt là phù hợp với tình hình phạm tội về hối lộ hiện nay tại Việt Nam, lợi ích không chỉ còn là lợi ích vật chất mà của hối lộ có thể là phi vật chất (chẳng hạn lợi ích tinh thần). - Ba là: các mức tiền trong các cấu thành tăng nặng, trong hình phạt bổ sung đều được nâng lên khoảng 10 lần so với quy định hiện hành. - Bốn là: Bổ sung hình phạt tiền và cải tạo không giam giữ trong cấu thành cơ bản. 4. Điều 367: Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản So với Điều 280 BLHS hiện hành, Điều luật này đã sửa đổi, bổ sung một số quy định sau: - Một là: Nâng mức tiền bị chiếm đoạt ở cấu thành cơ bản từ 5 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng. Bổ sung hình phạt tiền và cải tạo không giam giữ. - Hai là: Nâng mức tiền chiếm đoạt của các khung hình phạt tăng nặng như: khoản 2: từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; khoản 3 từ 500 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng; khoản 4 từ 1 tỷ đồng trở lên. - Ba là: Nâng mức phạt tiền là hình phạt bổ sung từ 30 triệu đồng đến 100 triệu đồng. 5. Điều 368: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ So với Điều 281 BLHS hiện hành, Điều luật này đã sửa đổi, bổ sung một số quy định sau: - Một là: thay từ "công dân" bằng từ "người khác" để bảo vệ quyền con người. - Hai là: bổ sung hình phạt tiền trong cấu thành cơ bản "thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng". - Ba là: tách khoản 3 của Điều 281 thành khoản 3 và khoản 4 cảu Điều 357 và nâng mức hình phạt lên 20 năm tù ở khoản 4. - Bốn là: Nâng mức phạt tiền là hình phạt bổ sung từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng. Chúng tôi cho rằng hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là hành vi làm trái công vụ, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác ít nguy hiểm hơn một số hành vi khác trong Chương tội phạm về chức vụ. Vì vậy, BLHS hiện hành chỉ quy định mức hình phạt tù cao nhất là 15 năm. Khi nâng mức hình phạt lên 20 năm tù, cần phải có căn cứ từ thực tiễn áp dụng cũng như về lý luận. Điều luật hiện hành quy định gây hậu quả rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng trong cùng một khoản và dành việc áp dụng mức phạt cụ thể trong khung hình phạt cho Tòa án. Nếu rất nghiêm trọng thì Tòa án quyết định hình phạt nhẹ hơn trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, chúng tôi đề nghị không nên tách khoản và không tăng mức hình phạt. Trong cấu thành cơ bản, Điều 368 Dự thảo đã bỏ đi cụm từ "động cơ cá nhân khác" là không phù hợp về mặt khách quan của tội phạm. Hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn làm trái công vụ của người có chức vụ, quyền hạn có thể vì mục đích vụ lợi nhưng có thể không vì vụ lợi mà vì động cơ cá nhân khác; ví dụ như: vì thân quen, nể nang, cán bộ hải quan không kiểm tra hành lý, hàng hóa qua cửa khẩu; cán bộ thuế cố tình thu thuế cao hơn hoặc thấp hơn mức quy định v.v…Vì vậy, trong cấu thành cơ bản cần phải có quy định "vì động cơ cá nhân khác". Đối với loại tội phạm này, hậu quả thiệt hại do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là dấu hiệu bắt buộc về mặt khách quan của tội phạm. Hậu quả thiệt hại có thể là vật chất hoặc phi vật chất, nhưng mức độ thiệt hại đến đâu thì mới cấu thành tội phạm thì điều luật không quy định rõ; điều này sẽ gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. 6. Điều 369: Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ Tương tự như Điều 368, chúng tôi đề nghị không bỏ cụm từ "động cơ cá nhân khác" của khoản 1 Điều 282 BLHS hiện hành và đề nghị cũng không tách khoản 3 của Điều 282 BLHS hiện hành thành 2 khoản: khoản 3 và 4 của Điều 369; đồng thời cũng không tăng hình phạt lên 20 năm tù với lý do tương tự như lập luận tại Điều 368 Dự thảo. 7. Điều 370: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi So với Điều 283 BLHS hiện hành thì Điều luật này bổ sung một số quy định sau đây: - Một là: Bổ sung hình phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng; hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm và giữ nguyên mức phạt tù từ 01 năm đến 06 năm. - Hai là: trong các khung tăng nặng đều quy định mức tiền bị chiếm đoạt tăng lên 10 lần: 100 triệu đến dưới 500 triệu (khoản 2); 500 triệu đến dưới 1 tỷ đồng (khoản 3) và 1 tỷ đồng trở lên (khoản 4). - Riêng đối với hình phạt bổ sung thì không quy định số tiền phạt cụ thể mà quy định phạt từ 01 lần đến 05 lần số tiền hoặc giá trị tài sản đã trục lợi; - Về hình phạt, Điều 370 giữ nguyên các mức hình phạt quy định tại các khung tăng nặng của Điều 283 BLHS hiện hành; mức hình phạt ở khoản 4 có thể từ 20 năm hoặc tù chung thân. 8. Điều 371: Tội giả mạo trong công tác Điều 371 đã bổ sung một số quy định mới trong cấu thành cơ bản; cụ thể như sau: bổ sung hình phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng; hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm; nâng mức phạt tiền là hình phạt bổ sung từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng. Đây là một tội mà các dấu hiệu khách quan "sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu” (tẩy, xóa, thêm, bớt nội dung của giấy tờ, tài liệu) nhằm làm sai lệch nội dung vốn có từ ban đầu; "làm giả giấy tờ, cấp giấy tờ giả"; "giả mạo chữ ký của người có thẩm quyền được ký"… Các hành vi khách quan này của người có chức vụ, quyền hạn thực hiện cũng tương tự như hành vi khách quan của tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 266 BLHS); tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế (Điều 167); tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 285); tội làm tiền giả, ngân phiếu giả, cây trái giả (Điều 180)… Tội phạm này được phân biệt bởi chủ thể là người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi giả mạo trong cấu thành cơ bản khi đang thực hiện nhiệm vụ được giao; nghĩa là họ phải lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện các hành vi này. Còn nếu họ thực hiện các hành vi này nhưng không phải trong khi thi hành nhiệm vụ được giao thì không cấu thành tội này và tùy theo ý thức chủ quan để xác định tội phạm khác. Các hành vi của người lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong tội phạm này có thể vì vụ lợi nhưng cũng có thể không vì vụ lợi mà vì động cơ cá nhân khác. Do đó, chúng tôi đề nghị cần giữ lại quy định "động cơ cá nhân khác" để xử lý những trường hợp phạm tội không vì vụ lợi. Tóm lại, tất cả các quy định trong phần khái niệm và Mục A các tội phạm về tham nhũng đều được sửa đổi theo hướng tăng cường áp dụng các hình phạt tiền, nâng mức phạt tiền trong các cấu thành tăng nặng và trong hình phạt bổ sung rất cao so với BLHS hiện hành. Như vậy, khi các mức tiền được tăng lên rất cao ở các khung tăng nặng chính là đã phi hình sự hóa loại và việc nâng mức tiền phạt trong hình phạt bổ sung là đã hình sự hóa loại tội phạm này. Có thể chúng ta cho rằng đồng tiền có chiều hướng mất giá nên tăng cho phù hợp, nhưng tăng gấp nhiều lần, thậm chí có quy định gấp 10 lần liệu có phù hợp thực tiễn và dư luận có chấp nhận hay không? Chúng tôi cho rằng cần nghiên cứu thận trọng vấn đề này, không nên phi hình sự quá lớn như dự thảo, vì trong tình hình hiện nay, việc phi hình sự hóa các hành vi tham nhũng có thể sẽ không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng. Cũng có quan điểm cho rằng cần phải quy định các tội phạm tham nhũng trong một chương riêng của BLHS nhằm thể hiện rõ hơn chính sách nhất quán của Nhà nước trong đấu tranh chống tham nhũng và nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Chúng tôi cho rằng đây cũng là vấn đề cần được xem xét thận trọng và có thể tiếp thu ý kiến này. Một số ý kiến khác đề nghị nên hình sự hóa các hành vi làm giàu bất chính, không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ quy định về kê khai tài sản. Chúng tôi cho rằng những vấn đề đặt ra cũng cần nghiên cứu thận trọng để khi quy định thành tội phạm đối với những hành vi này sẽ khả thi trong thực hiện và có lộ trình thực hiện, vì nếu hình sự hóa các hành vi này trong thời điểm hiện nay tính khả thi không cao. Về mục B: Các tội phạm khác về chức vụ 9. Về Điều 362: Tội cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác Đây là một tội ghép của 4 hành vi phạm tội khác nhau, tính nguy hiểm của các hành vi phạm tội khác nhau, nhưng lại khó phân biệt hành vi nào nguy hiểm hơn. Tính nguy hiểm của các hành vi này còn phụ thuộc vào mức độ mật của bí mật công tác. Cũng có ý kiến đề nghị tách Điều luật này thành 4 Điều luật riêng để quy định thành 4 tội phạm riêng, nhưng nếu tách ra mà các chế tài cũng như việc thiết kế điều luật giống nhau thì cũng không thật cần thiết. Chúng tôi đồng tình với việc giữ nguyên điều luật này về nội dung mà chỉ sửa về mặt kỹ thuật. 10. Về Điều 363: Tội vô ý làm lộ bí mật công tác; Tội làm mất tài liệu bí mật công tác Đây cũng là một tội ghép của hai hành vi phạm tội khác nhau. Việc không cần thiết phải tách thành hai điều luật cũng tương tự như đã nêu ở Điều 362. 11. Về Điều 365: Tội đưa hối lộ So với Điều 289 BLHS hiện hành thì Điều luật này được sửa đổi, bổ sung một số quy định: Một là: Trong cấu thành cơ bản đã bổ sung hình phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng; bổ sung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Hai là: Bổ sung dấu hiệu "trực tiếp hoặc qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn bất kỳ lợi ích nào". Ba là: Nâng mức tiền đưa hối lộ từ 5 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng. Bốn là: Lợi ích phi vật chất. Như vậy, cấu thành cơ bản của tội đưa hối lộ chặt chẽ và đầy đủ hơn. Tội phạm hoàn thành kể từ khi hai bên thỏa thuận việc đưa hối lộ, không cần đã đưa, mà chỉ cần sẽ đưa, hứa hẹn sẽ đưa là đủ cấu thành tội phạm. Năm là: Nâng định lượng của hối lộ trong các khung tăng nặng lên 10 lần so với quy định hiện hành (100 triệu đến dưới 500 triệu ở khoản 2; 500 triệu đến 1 tỷ đồng ở khoản 3 và 1 tỷ đồng trở lên ở khoản 4). 12. Về Điều 366: Tội môi giới hối lộ Điều 290 BLHS hiện hành quy định là "Tội làm môi giới hối lộ". Điều luật này bỏ từ "làm". Theo chúng tôi không nên bỏ từ này vì đây là hành vi khách quan của tội phạm, được đặt trong tội danh như một động từ, thể hiện hành vi hành động của người phạm tội là đã làm, đã nhận làm môi giới hối lộ. Việc sửa cấu thành cơ bản và cấu thành tăng nặng của Điều luật này tương tự như sửa trong Điều 365 mà chúng tôi đã nêu ở phần trên. 13. Về Điều 367: Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi. Điều luật này nâng mức tiền trong cấu thành cơ bản lên 5 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng; bổ sung hình phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng; bổ sung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm; tăng định lượng tiền ở các khung tăng nặng. Điều luật được thiết kế thành 4 khoản. Theo đó khoản 2 của Điều 291 BLHS hiện hành được tách ra để thiết kế thành khoản 3 và khoản 4 với các tình tiết định khung hình phạt được cân nhắc, sắp xếp lại từ các tình tiết định khung tăng nặng của khoản 2 Điều 291 BLHS hiện hành. Việc thiết kế lại các khung hình phạt của Điều luật này đã rút ngắn khoảng cách quá xa của chế tài hình phạt trong khoản 2 Điều 291 BLHS hiện hành (3 năm đến 10 năm). Tóm lại: Trong mục B: Các tội phạm khác về chức vụ, không phải các tội phạm đều có chủ thể là người có chức vụ quyền hạn mà một số tội phạm không do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện. Nói cách khác, chủ thể của một số tội như: đưa hối lộ, làm môi giới hối lộ, lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi không phải là người có chức vụ quyền hạn. Các hành vi phạm tội này chỉ liên quan đến người có chức vụ quyền hạn. Như vậy, việc đặt các tội danh này trong Mục B Chương XXIII Các tội phạm về chức vụ cũng không thật hợp lý. Tuy nhiên, nếu đặt các tội này ở chương khác thì lại thiếu đi sự logic, nhất là sự gắn kết, mối quan hệ bài trùng giữa nhận hối lộ với đưa hối lộ và làm môi giới hối lộ. Do vậy, theo chúng tôi đặt các tội dù chỉ là có liên quan đến chức vụ quyền hạn tại Mục B Chương này là hợp lý hơn. Cũng như Mục A, Mục B của Chương này đã có những quy định phi hình sự hóa khi các quy định về định hướng giá trị tài sản ở các khung tăng nặng đều nâng lên rất cao. Liệu dư luận có đồng tình không? Chúng tôi cho rằng không nên phi hình sự hóa quá lớn như dự thảo. II. Chương XXIV: Các tội phạm hoạt động tư pháp Theo Báo cáo số 38/BC-TA ngày 8/8/2014 của Chánh án TAND tối cao thì từ ngày 01/01/2011 đến ngày 31/12/2013, TAND cấp sơ thẩm đã thụ lý 602 vụ với 828 bị cáo bị truy tố về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Trong số đó có 10 vụ với 23 bị cáo bị truy tố về tội dùng nhục hình; 441 vụ với 600 bị cáo bị truy tố về tội trốn khỏi nơi giam giữ; 73 vụ với 100 bị cáo bị truy tố về tội không tố giác tội phạm; 30 vụ với 32 bị cáo bị truy tố về tội không chấp hành án; không có vụ án nào về tội bức cung. Riêng tội dùng nhục hình đã có xu hướng tăng nhiều hơn trong những năm gần đây: năm 2011 chỉ có 1 vụ với 2 bị cáo, năm 2012 có 4 vụ với 07 bị cáo, năm 2013 có vụ với 14 bị cáo. Như vậy, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp chiếm tỷ lệ không nhiều so với số lượng các vụ án hình sự sơ thẩm mà các Tòa án đã thụ lý và giải quyết. Trong đó, các vụ án do những người tiến hành tố tụng gây ra chiếm tỷ lệ không đáng kể trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Trong thực tiễn, việc bức cung, nhục hình hoặc các hành vi vi phạm pháp luật khác của người có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án vẫn thường xảy ra, gây bức xúc trong dư luận nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín, đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tiến hành tố tụng; nguy hiểm hơn là đã làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào công lý. Tình trạng bức cung, mớm cung, đe dọa, dụ dỗ, tác động về tinh thần của người tiến hành tố tụng với bị can vẫn thường xảy ra; tuy nhiên, việc bị can, bị cáo đưa ra chứng cứ để tố cáo, trình bày trước Tòa lại hết sức khó khăn. Tòa án không tham dự việc điều tra, việc đánh giá, xem xét để chấp nhận lời khai của bị cáo là việc rất khó khăn. Chứng cứ không đủ thì việc khởi tố vụ án của Tòa án cũng không thể thực hiện được. Chỉ những trường hợp dùng nhục hình (tra tấn, đánh đập) gây ra thương tích nặng, làm cho người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam chết hoặc tự sát thì vụ án mới được khởi tố và cũng chỉ khởi tố về tội dùng nhục hình. Trước tình hình nêu trên, chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung đối với các tội phạm của Chương này là rất cần thiết và cũng cần rất thận trọng. Chúng tôi xin nêu một số vấn đề sau đây: 1. Điều 379: Khái niệm tội xâm phạm hoạt động tư pháp Điều luật quy định: "Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động tố tụng và thi hành án". Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm hoạt động tư pháp, cơ quan tư pháp, quyền tư pháp và mặc dù Luật quy định Tòa án là cơ quan duy nhất được giao thực hành quyền tư pháp, nhưng không chỉ có Tòa án mới tiến hành các hoạt động tư pháp. Các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong phạm vi chức năng, quyền hạn của mình cũng tiến hành các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật tố tụng. Vậy những hành vi nào xâm phạm đến hoạt động đúng đắn, bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng là các hành vi xâm phạm đến hoạt động tư pháp. Thi hành án là một giai đoạn của hoạt động tố tụng nên xâm phạm đến hoạt động thi hành án cũng là xâm phạm hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, thi hành án đã được tách ra khỏi tố tụng và quy định trong Luật thi hành án hình sự, Luật thi hành án dân sự nên có thể coi là một hoạt động tư pháp riêng biệt (mặc dù trong Luật tố tụng vẫn còn những quy định liên quan đến thi hành án, nhưng đó chỉ là những quy định mang tính nguyên tắc) Suy cho cùng thì khái niệm về tội xâm phạm hoạt động tư pháp tại Điều 292 BLHS hiện hành cũng là các hoạt động tố tụng và thi hành án. Do đó, Điều 379 của Dự thảo đưa ra khái niệm nêu trên cũng phù hợp. Tuy nhiên, theo chúng tôi cần bổ sung cho chính xác hơn về khái niệm này. Chúng tôi xin đề xuất như sau: "Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tiến hành tố tụng và thi hành án". 2. Về một số điểm mới sửa đổi, bổ sung của Chương XXIV - Một là: mở rộng hơn về chủ thể của tội phạm của tội Ra quyết định trái phép luật (Điều 372); chủ thể của tội dùng nhục hình (Điều 374); Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc (Điều 376); sửa đổi khái niệm “nhân viên tư pháp” bằng khái niệm "người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng và thi hành án". - Hai là: loại trừ trách nhiệm hình sự đối với một số chủ thể đặc biệt của tội không tố giác tội phạm; bỏ khoản 2 Điều 314 BLHS hiện hành để phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 19 Dự thảo BLHS. - Ba là: tăng mức hình phạt đối với một số tội như tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội (Điều 381) hình phạt của tội này tới 12 năm tù; tội dùng nhục hình và tội bức cung (Điều 385 và 386) với hình phạt đến tù chung thân. - Bốn là: bổ sung một số tình tiết tăng nặng như: "Phạm tội đối với người chưa thành niên, phụ nữ có thai, người già yếu", "phạm tội đối với 02 người trở lên" trong một số tội phạm. Đây là những quy định mới và rất phù hợp với yêu cầu đấu tranh đối với nhóm tội phạm này và chúng tôi tin rằng dư luận sẽ rất đồng tình. 3. Về một số vấn đề khác - Một là: việc xử lý kỹ thuật giữa tội bức cung và tội dùng nhục hình còn có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng dùng nhục hình nhằm bức cung nên chỉ coi dùng nhục hình là tình tiết tăng nặng của bức cung. Chúng tôi cho rằng việc dùng nhục hình dù là để buộc người bị thẩm vấn khai đúng hay khai sai sự thật hoặc khai trái ý muốn của họ đều là vi phạm pháp luật. Dù sao hành vi dùng nhục hình cũng dễ phát hiện hơn hành vi bức cung. Mặt khác việc dùng nhục hình có thể không có mục đích bức cung và có thể xảy ra khi bắt, giữ, giam, điều tra đến thi hành án; do đó, không nên ghép hai tội với nhau vì đó là hai hành vi khác nhau. Tuy nhiên, trong tội dùng nhục hình cần bổ sung các tình tiết tăng nặng như gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe và tùy theo mức độ tổn thương để định trong các khung tăng nặng. Trong tội bức cung cũng nên có tình tiết tăng nặng là dùng nhục hình. Công ước Chống tra tấn cũng được nội luật hóa trong tội bức cung và tội dùng nhục hình nên không cần thiết phải có tội tra tấn vì nhục hình là tra tấn rồi; - Hai là: một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm tội không tôn trọng Tòa án; hình sự hóa hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử; hành vi cố ý tẩu tán, hủy hoại hoặc không cung cấp chứng cứ, tài liệu có ý nghĩa cho việc giải quyết các vụ án hành chính, các vụ việc dân sự mà Tòa án yêu cầu cung cấp hoặc có quyết định thu thập chứng cứ; hành vi cản trở hoạt động định giá tài sản, hoạt động xem xét tại chỗ; hành vi cố ý không thực hiện, thực hiện không đúng việc cấp, tống đạt các văn bản tố tụng theo yêu cầu của Tòa án… Chúng tôi cho rằng một số hành vi nêu trên đã được quy định trong BLHS nên không cần thiết phải xây dựng một số điều luật mới trong BLHS để xử lý các hành vi nêu trên. Một số hành vi không cần thiết phải xử lý bằng hình sự, có hành vi cần nghiên cứu kỹ hơn, có thể quy định thành tội phạm trong BLHS; chẳng hạn, như cần xây dựng điều luật quy định tội không tôn trọng Tòa án để đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng xúc phạm, gây rối trật tự, thậm chí lăng mạ Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng, Luật sư, người giám định, người phiên dịch… tại phiên tòa, phiên họp. Chúng tôi xin đề xuất tội danh này như sau: “Điều… Tội không tôn trọng Tòa án 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 01 năm. a. Lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm hoặc có hành vi dùng bạo lực đối với những người tham gia tố tụng tại phiên họp, phiên tòa; b. Gây rối trật tự tại phiên họp, phiên tòa hoặc trong quá trình tham gia tố tụng tại trụ sở Tòa án. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm: a. Đối với người tiến hành tố tụng; b. Phạm tội có tổ chức; c. Gây hậu quả nghiêm trọng; 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng phạt quản chế từ 01 năm đến 03 năm hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ từ 01 năm đến 05 năm”. Đối với hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử thì bổ sung điều luật về tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật. Hành vi mua chuộc, đe dọa, cưỡng ép để ngăn cản người làm chứng hoặc để họ khai báo gian dối bị xử theo tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu. Hành vi cố ý tẩu tán, hủy hoại hoặc không cung cấp tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa quan trọng cho việc giải quyết các vụ án hành chính, các vụ việc dân sự mà Tòa án yêu cầu cung cấp hoặc có quyết định thu thập chứng cứ đã bị xử lý về tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc; tội từ chối kết luận giám định hoặc từ chối cung cấp tài liệu; tội khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật. Đối với hành vi cố ý không thực hiện, thực hiện không đúng việc cấp, tống đạt các văn bản tố tụng theo yêu cầu của Tòa án hoặc của các cơ quan tiến hành tố tụng thì không nên hình sự hóa mà chỉ cần xử lý bằng biện pháp hành chính. - Ba là: về quy định tại Điều 388 "Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn" và Điều 390: "Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành hình phạt tù". Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn là tội do lỗi vô ý; Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành hình phạt tù là tội do lỗi cố ý. Tuy nhiên, ở khoản 2 Điều 388 quy định "phạm tội để người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành hình phạt tù về một tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng…" tức là trường hợp đối với tội nghiêm trọng đã bị xử phạt ở khung tăng nặng, nhưng tại khoản 2 Điều 390 quy định "Phạm tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù về tội rất nghiêm trọng, hoặc đặc biệt nghiêm trọng…", tức là trong tội này, chỉ tội rất nghiêm trọng mới bị xử phạt ở khung tăng nặng. Như vậy là không hợp lý vì phạm tội do vô ý bị xử phạt nặng hơn tội do cố ý. Do đó, chúng tôi đề nghị bỏ "tội nghiêm trọng" ở khoản 2 Điều 388 và đưa tình tiết này về khoản 2 Điều 390 mới phù hợp với tính nguy hiểm của từng hành vi phạm tội nêu trên.
                                                                                                                            Nguyễn Quang Lộc

Không có nhận xét nào: