Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2015

Phân tích thực trạng và hướng đề xuất hoàn thiện các văn bản pháp luật hình sự liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu


I. Một số vấn đề chung về các tội xâm phạm sở hữu và các văn bản pháp luật hình sự về loại tội này 1. Bộ luật hình sự Quyền sở hữu được
Hiến pháp quy định và đó là một quyền bất khả xâm phạm. Sở hữu tài sản luôn là một vấn đề gắn liền với cuộc sống thường nhật của mọi công dân. Mối quan hệ về sở hữu này luôn được nhà nước bảo vệ. Trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985, nhà nước đã ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản của công dân. Bộ luật hình sự năm 1985 cũng quy định hai chương: Chương IV “Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa” và Chương V “Các tội xâm phạm sở hữu của công dân”. Sau hơn 14 năm thi hành Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự này đã bộc lộ một số bất cập trong nhiều quy định và đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với những thay đổi to lớn của thời kỳ đổi mới đất nước. Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời đã cơ bản đáp ứng được các đòi hỏi cấp thiết của xã hội và đã đi vào cuộc sống, phát huy được vai trò to lớn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần đáng kể vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, góp phần không nhỏ vào việc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước. Hơn 13 năm qua, Bộ luật hình sự 1999 cũng lại bộc lộ một số bất cập và đã có một số điều không còn phù hợp. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung một số điều luật đó lại được đặt ra và một lần nữa Quốc hội lại ban hành Nghị quyết về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự. Các tội phạm về sở hữu theo đó cũng đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung chẳng hạn: Bộ luật hình sự năm 1999 đã nhập hai chương IV và V của Bộ luật hình sự năm 1985 thành Chương XIV. Các tội xâm phạm sở hữu cho phù hợp với chính sách kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn đổi mới nền Kinh tế. Các tội xâm phạm sở hữu được xây dựng thành 13 điều luật. Các điều luật này hầu hết đã được hình thành từ việc nhập hai hoặc ba điều luật trong Chương IV và Chương V Bộ luật hình sự năm 1985. - Chuyển tội tham ô tài sản và tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản sang Chương “Các tội phạm về chức vụ” thuộc nhóm tội phạm về tham nhũng. - Hình sự hóa một số hành vi nguy hiểm cho xã hội thành tội phạm được quy định tại Chương này như mở rộng phạm vi về sở hữu trong tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142 BLHS 1999); Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134 BLHS 1999). - Bộ luật hình sự 1999 quy định việc định lượng tài sản là dấu hiệu quan trọng để phân biệt tội phạm với hành vi hành chính, vi phạm kỷ luật và phân biệt khung hình phạt trong cùng một điều luật (một tội). - Hầu hết các tội xâm phạm sở hữu được nhà làm luật thiết kế thành 4 khung hình phạt với mức chênh lệch nhau giữa các khung là 8 năm tù. - Giữ nguyên hình phạt tử hình đối với hai tội “Cướp tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 133 và Điều 139 BLHS 1999). - Bộ hình phạt tử hình đối với hai tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Hủy hoại tài sản” (Điều 138 và Điều 143 BLHS). - Tăng hình phạt đối với một số tội “Cướp giật tài sản” từ 20 năm tù thành tù chung thân; Tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” từ 20 năm tù thành tù chung thân. - Giảm nhẹ hình phạt đối với một số tội ít nguy hiểm cho xã hội như tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 145 BLHS); tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản nhà nước (Điều 144 BLHS). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999 đã có một số sửa đổi, bổ sung một số điều quan trong Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu”. Các sửa đổi, bổ sung này đều theo hướng phi hình sự hóa. Chẳng hạn đã bỏ hình phạt tử hình trong Khoản 4 Điều 139 (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản); sửa định hướng từ “năm trăm ngàn đồng” thành “hai triệu đồng” tại Khoản 1 của các tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản” (Điều 137), “Trộm cắp tài sản” (Điều 138), “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 139), “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” (Điều 143) Bộ luật hình sự năm 1999. Luật cũng đã sửa “từ một triệu đồng” thành “bốn triệu đồng” đối với Khoản 1 Điều 140 “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; sửa đổi “từ năm triệu đồng” thành “mười triệu đồng” của Khoản 1 Điều 141 “Tội chiếm giữ trái phép tài sản”. Như vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS đã phi hình sự hóa về định lượng tài sản bị chiếm đoạt và phi hình sự hóa về mức hình phạt của các điều luật nêu trên. Về cấu thành cơ bản của các tội xâm phạm sở hữu vẫn được giữ nguyên như quy định của BLHS năm 1999. Một số dấu hiệu về khách thể có ý nghĩa quyết định tội hay không phải là tội phạm như trường hợp quy định trong một số cấu thành cơ bản về định lượng giá trị tài sản. Theo đó, hành vi chiếm đoạt tài sản dưới 2 triệu đồng (đối với các tội trộm cắp, lừa đảo, công nhiên chiếm đoạt tài sản) hoặc dưới 4 triệu đồng (đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản) thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu thuộc một trong ba trường hợp là: - Gây hiệu quả nghiêm trọng; - Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt; - Đã bị kết án về tội chiếm đoạt, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm những dấu hiệu này cũng được quy định trong tội “Sử dụng trái phép tài sản” (Điều 142 BLHS). Như vậy, các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại Chương XIV Bộ luật hình sự hiện hành được chia thành hai nhóm: - Nhóm 1: Các tội xâm phạm sở hữu có mục đích tư lợi (từ Điều 133 đến Điều 143). - Nhóm 2: Các tội xâm phạm sở hữu không có mục đích tư lợi (từ Điều 14 và Điều 145). Căn cứ vào đặc điểm của hành vi phạm tội, các tội xâm phạm sở hữu có mục đích tư lợi lại được chia thành hai nhóm là nhóm có tính chất chiếm đoạt (Điều 133 đến Điều 140) và nhóm không có mục đích chiếm đoạt (các Điều 141,142 và Điều 143 BLHS) (tội chiếm giữ trái phép tài sản, tội sử dụng trái phép tài sản, tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản). Các tội phạm về sở hữu được phân biệt với nhau chủ yếu thông qua hành vi khách quan, đặc biệt là thủ đoạn phạm tội. Thủ đoạn phạm tội khác nhau (dùng bạo lực, đe dọa dùng bạo lực ngay tức khắc, lén lút, công nhiên, gian dối vv…). Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, có thể người phạm tội thay đổi thủ đoạn phạm tội và sự thay đổi đó đã dẫn tới chuyển hóa tội phạm. Hầu hết các tội phạm sở hữu điều có quy định về định lượng giá trị tài sản bị chiếm đoạt hoặc bị xâm phạm. Do vậy, việc xác định chính xác giá trị tài sản có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với việc định tội, định khung hình phạt mà còn có ý nghĩa đảm bảo việc quyết định về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự. 2. Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp “Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999” Để áp dụng đúng và thống nhất các quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự, các ngành tư pháp trung ương đã ban hành thông tư số 02/2001 ngày 25/12/2001. Đây là một văn bản pháp luật hình sự hết sức quan trọng đối với những cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Thông tư số 02/2001/TTLT nói trên đã hướng dẫn rất tỷ mỉ, cụ thể, rõ ràng về rất nhiều vấn đề như yếu tố định tội, định khung hình phạt; “Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” của quy định trong các Điều từ 133 đến Điều 140, Điều 142 và Điều 143 BLHS; về thủ đoạn nguy hiểm; về chuyển hóa tội phạm; về xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ trái phép, bị sử dụng trái phép, bị hủy hoại hoặc làm hư hỏng vv… và một số trường hợp cụ thể khác khi truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo chúng tôi, đây là một trong những văn bản pháp luật hình sự có giá trị cao nhất về thực tiễn áp dụng pháp luật. Việc truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng có nhiều thuận lợi, do đó công tác xét xử các tội xâm phạm sở hữu hầu như không gặp vướng mắc lớn về nhận thức điều luật, đặc biệt là nhận thức về các tình tiết định tội, định khung tăng nặng của tội phạm. II. Một số vấn đề công tác xét xử các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án Các tội xâm phạm sở hữu xảy ra rất nhiều và chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng số các tội phạm mà Tòa án đã giải quyết, xét xử. Trung bình mỗi năm ngành Tòa án nhân dân thụ lý và giải quyết khoảng 60.000 vụ án hình sự sơ thẩm. Trong đó, các vụ án xâm phạm sở hữu khoảng trên 25.000 vụ với 40.000 bị cáo chiếm tỷ lệ 38% về số vụ và số bị cáo. Trước khi thực hiện Bộ luật hình sự năm 1999, tình hình phạm tội xâm phạm sở hữu nếu chỉ nhìn vào số liệu thống kê xét xử thì rất lớn, nhưng thực ra, do Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định về định lượng trong loại tội phạm này nên việc truy tố, xét xử tương đối tràn lan. Chẳng hạn trộm cắp gương xe, cốp xe, mặt nạ xe máy, trộm cắp cái phích nước, cái xoong, cái nồi (trộm vặt) cũng đã bị truy tố, xét xử. Sau khi BLHS năm 1999 đưa vào các điều luật yếu tố định lượng thì các hành vi vi phạm nhỏ không còn là tội phạm mà bị xử lý bằng hành chính. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999 cũng đã sửa đổi theo hướng phi hình sự hóa đối với một số điều trong Chương “Xâm phạm sở hữu”. Xu hướng phi hình sự hóa trong BLHS đối với một số tội xâm phạm sở hữu đã làm giảm bớt số lượng các vụ án xâm phạm sở hữu có tính nguy hiểm không cao cho xã hội (tức là giảm bớt loại tội ít nghiêm trọng). Tuy nhiên, tình hình tệ nạn xã hội đặc biệt là tệ nạn ma túy phát triển mạnh trong những năm gần đây là một nguyên nhân quan trọng làm cho các tội phạm về xâm phạm sở hữu tăng hơn trước. Theo thống kê của TANDTC thì có khoảng 50% số người phạm tội về xâm phạm sở hữu là người nghiện ma túy. Như vậy, ma túy và xâm phạm sở hữu đã có mối quan hệ tương đối chặt chẽ với nhau. Vướng mắc chủ yếu trong công tác xét xử các tội xâm phạm sở hữu là việc xác định hành vi khách quan, thủ đoạn phạm tội để phân biệt tội danh. Xác định tội danh không đúng do không phân biệt được hoặc nhầm lẫn là một thiếu sót của công tác xét xử loại tội phạm này. Các Thẩm phán thường nhầm lẫn giữa lừa đảo chiếm đoạt tài sản với lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; giữa Cướp tài sản với Cướp giật tài sản; giữa Cướp giật tài sản với công nhiên chiếm đoạt tài sản; giữa bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản với mua bán người vv… - Vấn đề định giá tài sản, việc thẩm định giá tài sản cũng rất phức tạp, đặc biệt trong những trường hợp mà dấp dính giữa định lượng tài sản với việc có tội hay không có tội. - Lúng túng khi xác định một số tình tiết định khung tăng nặng lại là dấu hiệu cấu thành một tội khác. Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT cũng không hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Tuy điều 3.2 mục I của Thông tư này hướng dẫn “… Đối với các tội quy định tại các Điều 133, 134, 136 thì thiệt hại về sức khỏe, tính mạng đã được quy định thành tình tiết định khung riêng biệt, cho nên không xem xét các thiệt hại này một lần nữa để đánh giá hậu quả do hành vi vi phạm tội gây ra được hướng dẫn tại tiểu mục 3.4 Mục 3 này”. Theo tiểu mục 3.4 Mục 3 của Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT thì hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đã hướng dẫn cụ thể. Ví dụ: gây hậu quả nghiêm trọng là: làm chết một người; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%. Hậu quả nghiêm trọng này có dấu hiệu của tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe. Các tình tiết này có được coi là một tội riêng biệt không? III. Một số kiến nghị về hoàn thiện các văn bản pháp luật hình sự liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu 1. Về Bộ luật hình sự: Dự báo tình hình hình tội phạm chung và dự báo về loại tội phạm cụ thể là những vấn đề rất cần được quan tâm trong quá trình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện BLHS. Bộ luật hình sự của Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung rất nhiều lần, có một số Điều được bổ sung nhiều lần, nhưng nhìn chung BLHS mới đạt được yêu cầu “Giải quyết tình huống” mà chưa thật sự toàn diện. Việc sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự phải được coi là một công trình Khoa học mang tầm cỡ quốc gia, đòi hỏi phải có sự đầu tư rất lớn về vật chất, thời gian, tập trung trí tuệ của nhiều người. Các vấn đề đặt ra phải rất nghiêm túc, trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, không có sự áp đặt chủ quan của cá nhân hay một nhóm cá nhân nào đó! Khi đặt ra vấn đề sửa đổi toàn diện BLHS một cách toàn diện. Khoa học thì phải có sự tổng kết thực tiễn áp dụng các điều luật, từng điều luật thế nào. Vấn đề lý luận có gì vướng mắc, không còn phù hợp với thực tiễn? Sự kết hợp hài hòa giữa thực tiễn và lý luận, các vấn đề khác về tác động của nền kinh tế đến tình hình diễn biến tội phạm, đưa ra được những dự báo tương đối chính xác về tội phạm vv… là những vấn đề rất đáng quan tâm. Bộ luật hình sự hiện hành tuy mới được sửa đổi, bổ sung và có hiệu lực từ năm 2010, tuy nhiên, lần sửa đổi vừa qua cũng chưa phải là toàn diện và do đó đã nẩy sinh những bất cập trong chính các điều luật mới được sửa đổi. Mặt khác, nhiều điều luật của BLHS cũng không còn phù hợp, cần sửa đổi nhưng cũng chưa được sửa đổi. Bên cạnh việc dự báo tội phạm để xây dựng một BLHS mới, hoàn chỉnh hơn thì cũng cần rà soát lại xem các quy định nào của Bộ luật hình sự, đặc biệt là trong phần các tội phạm (phần riêng) có những quy định nào từ khi xây dựng BLHS nhưng trong những năm đó và cho đến nay không được áp dụng. Chúng ta phải tìm ra nguyên nhân vì sao điều luật đó không được áp dụng. Nếu tính nguy hiểm cho xã hội không còn nữa hoặc còn ít thôi thì cũng nên đưa ra khỏi BLHS. Chương XIV của Bộ luật hình sự “Các tội phạm sở hữu” là một chương quan trọng vì các điều luật của chương này thường xuyên được áp dụng. Nhìn chung, bố cục của phần các tội phạm đều đi theo hướng từ tội nặng đến tội nhẹ trong cùng một chương, từ mối quan hệ xã hội quan trọng cần được bảo vệ đặc biệt đến mối quan hệ xã hội cần hoặc được bảo vệ (theo giá trị của khách thể bị xâm hại). Chương XIV cũng được thiết kế theo hướng trên, về cơ bản là hài hòa và phù hợp. Tuy nhiên, tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là một tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3 và khoản 4 Điều 143 BLHS) lại được xếp sau các tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141 BLHS) và tội “Sử dụng trái phép tài sản”. Hai tội này chỉ là loại tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Tương tự như trên, tội “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước” (Điều 144) cũng là một tội rất nghiêm trọng (nếu vi phạm vào khoản 3 của điều luật), nhưng lại xếp sau tội chiếm giữ trái phép tài sản và tội sử dụng trái phép tài sản. - Về chế tài hình phạt: Sự chênh lệch trong các chế tài của khung hình phạt là không nhiều (từ 7 năm đến mười lăm năm, từ mười hai năm đến hai mươi năm… tức là chỉ chênh lệch 8 năm tù) khoảng cách này là phù hợp, tạo điều kiện lựa chọn hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân, động cơ, mục đích, hoàn cảnh, điều kiện phạm tội của từng người phạm tội - Tức là tạo điều kiện thuận lợi cho Hội đồng xét xử cân nhắc khi quyết định hình phạt. Tuy vậy, chế tài của tội cố ý làm hư hỏng tài sản được đặt chung với chế tài của tội hủy hoại tài sản (Điều 143) là chưa thật phù hợp. Hành vi hủy hoại có tính nguy hiểm cao hơn hành vi cố ý làm hư hỏng. Hai tội phạm này được ghép trong một điều luật đã tạo ra bất hợp lý khi áp dụng. Mặt khác, chế tài của điều luật, theo chúng tôi là quá nghiêm khắc (khoản 4 quy định hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân). Thực tế xét xử loại tội phạm này cho thấy rất ít trường hợp Tòa án áp dụng mức hình phạt tới 20 năm tù và hầu như không áp dụng hình phạt tù chung thân. - Về hình phạt bổ sung: Các hình phạt bổ sung trong các tội xâm phạm sở hữu đều được thiết kế ở khoản cuối cùng mà điều luật (thường là khoản 4). Trong đó, có một số tội như Cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có quy định hình phạt bổ sung là cấm tư trú. Đối với một số tội khác như Cưỡng đoạt tài sản, Cướp giật tài sản, Công nhiên chiếm đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản, Lừa đảo chiếm đoạt tài sản… thì điều luật không đúng quy định hình phạt cấm cư trú. Thông thường cấm cư trú được Tòa án áp dụng đối với những đối tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm (lưu manh, côn đồ) nhằm hạn chế điều kiện phạm tội. Trong những năm gần đây, các Tòa án rất ít hoặc không áp dụng hình phạt này vì tác dụng của hình phạt này rất hạn chế. Việc cấm cư trú ở địa phương, địa bàn này thì người phạm tội sau khi chấp hành xong hình phạt tù sẽ ở đâu hay họ thích ở chỗ nào thì ở miễn là không ở nơi đã bị cấm cư trú? Mặt khác, ngoài tội Cướp tài sản và tội Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì các tội phạm về xâm phạm sở hữu cũng thường do các đối tượng phạm tội có nhân thân xấu thực hiện. Nếu cấm cư trú với tội này, không cấm cư trú đối với đối tượng (cùng loại) khác thì cũng chưa thật sự phù hợp. Do đó, cần cân nhắc việc bổ sung hoặc xóa bỏ hình phạt cấm cư trú không chỉ đối với các tội phạm sở hữu mà còn đối với các tội xâm phạm tương tự khác trong Bộ luật hình sự. - Về một số tội phạm khác liên quan đến xâm phạm sở hữu Ngoài Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” thì một số điều luật trong Bộ luật hình sự có liên quan đến loại tội phạm này như tội “Tham ô tài sản”, Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản là hai tội liên quan trực tiếp đến việc xâm phạm sở hữu của Nhà nước hoặc của công dân. Tuy nhiên, hai tội này được bố trí trong mục A Chương XXI của Bộ luật hình sự “Các tội phạm về chức vụ”. Sự sắp xếp này thể hiện quan điểm đấu tranh chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, tham nhũng đã, đang và sẽ vẫn là một “quốc nạn” nhưng loại tội phạm này được xếp tại Chương XIV tức là gần cuối cùng của Bộ luật hình sự là một sự sắp xếp không hợp lý. Giá trị của khách thể rất quan trọng này, mối quan hệ xã hội phức tạp nhưg rất cần sự can thiệp mạnh mẽ của Nhà nước lại được đặt ở vị trí không ngang tầm. Phải chăng, xét về mặt lập pháp thì đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng đạt hiệu quả rất thấp nếu không nói là kém hiệu quả. 2. Về Thông tư liên tịch hướng dẫn Chương XIV “Các tội phạm sở hữu” - Mặc dù được đánh giá rất cao, nhưng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT ngày 25/12/2001 của liên ngành tư pháp trung ương cũng có những vấn đề còn gây tranh cãi (tức là tính thống nhất nhận thức chưa thật cao) Ví dụ: điểm 5 phần II của Thông tư liên tịch hướng dẫn về trường hợp tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hình vi xâm phạm sở hữu phải vị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo chúng tôi, thực ra một người thực hiện nhiều lần cùng hành vi xâm phạm sở hữu mà mỗi lần xâm phạm thấp hơn định lượng tối thiểu của điều luật (chẳng hạn thấp hơn 2 triệu đồng) thì cũng không thật chuẩn xác. Những lần vi phạm đó là một lần vi phạm hành chính hoặc vi phạm kỹ thuật. Hướng dẫn của Thông tư liên tịch 02 cũng sẽ được hiểu là nhiều lần vi phạm hành chính, nhiều lần vi phạm kỷ luật thì cấu thành tội phạm? Tức là cứ tái phạm hành chính là phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cùng loại? Chúng tôi hiểu và cho rằng hướng dẫn của liên ngành tư pháp trung ương thể hiện tinh thần kiên quyết đấu tranh chống tội phạm phòng ngừa tội phạm, nhưng cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm sở hữu đâu phải chỉ bằng biện pháp hình sự mà còn bằng nhiều biện pháp khác, trong đó có biện pháp hành chính (chẳng hạn đưa vào trường giáo dưỡng, tập trung cải tạo vv…). - Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT được ban hành cách đây hơn 12 năm. Trong thời gian đó Bộ luật hình sự năm 1999 đã có những sửa đổi, bổ sung một số điều trong Chương “Các tội xâm phạm sở hữu”, nhưng cũng chưa có Thông tư liên tịch nào khác hướng dẫn về vấn đề này. Do đó, khi xét xử, các Tòa án đều phải dựa vào hướng dẫn của Thông tư và “phiên ra” theo những sửa đổi, bổ sung của BLHS để áp dụng. 3. Về hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về Chương XIV BLHS Do đã có Thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV BLHS nên trong thời gian qua, Hội đồng Thẩm phán TANDTC không ban hành Nghị quyết nào hướng dẫn về vấn đề này. Tuy nhiên, trong công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. TAND cũng có hướng dẫn, giải đáp một số vướng mắc cụ thể của các Tòa án địa phương khi giải quyết vụ án về loại tội này. 4. Một số đề xuất, kiến nghị 4.1. Đối với Bộ luật hình sự Một là: Sắp xếp lại thứ tự của một số tội trong Chương XIV “Các tội phạm sở hữu”. Cụ thể là đưa Điều 144 “Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước” và “Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” (Điều 143) lên trước “Tội chiếm giữ trái phép tài sản” và “Tội sử dụng trái phép tài sản”. Hai là: Tách Điều 143 BLHS thành hai tội riêng biệt, đó là “Tội cố ý hủy hoại tài sản” và “Tội cố ý làm hư hỏng tài sản” và xây dựng chế tài hình phạt của hai tội này khác nhau, theo hướng giảm bớt hình phạt tù chung thân đối với tội hủy hoại tài sản và giảm bớt hình phạt đối với “Tội cố ý làm hư hỏng tài sản”. Nếu phương án này được chấp nhận thì trật tự sắp xếp lại điều luật sẽ là: - Tội chiếm giữ trái phép tài sản; - Tội sử dụng trái phép tài sản; - Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước; - Tội cố ý làm hư hỏng tài sản; - Tội cố ý hủy hoại tài sản. Ba là: Bộ luật hình sự cần quy định một số điều để khẳng định các tình tiết đã là tình tiết định khung hình phạt thì không là tình tiết định tội riêng biệt. Bốn là: Nên cân nhắc về một số hình phạt bổ sung, trong đó có hình phạt cấm cư trú. Chúng tôi cho rằng đây là loại hình phạt bổ sung không phát huy được tác dụng phòng ngừa tội phạm và nên bỏ ra khỏi Bộ luật hình sự. Năm là: Nên nghiên cứu để sắp xếp lại Chương “Các tội phạm về chức vụ” theo hướng đưa Chương này lên sát với Chương “Các tội xâm phạm sở hữu”, thậm chí có thể đưa lên trước Chương “Các tội xâm phạm sở hữu”. Có như vậy thì mới thể hiện rõ hơn quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc đấu tranh Chống tham nhũng, thể hiện rõ hơn tính nguy hiểm của hành vi phạm tội và tình hình tham nhũng hiện nay. 4.2. Đối với các văn bản pháp luật hình sự của liên ngành tư pháp trung ương Một là: Kiến nghị liên ngành tư pháp trung ương sớm nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT ngày 25/12/2001 Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự cho phù hợp với những vấn đề đã được sửa đổi, bổ sung của Bộ luật hình sự. Hai là: Nhiều tội phạm quy định trong Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” có quy định về định lượng tài sản (giá trị tài sản bị xâm phạm). Để đảm bảo tính ổn định của văn bản pháp luật, tránh việc phải sửa đổi bổ sung nhiều lần, chúng tôi kiến nghị nhà làm luật hoặc liên ngành tư pháp trung ương nghiên cứu, có thể quy định hoặc hướng dẫn áp dụng pháp luật về định lượng trong trường hợp có biến động, thay đổi về giá trị của tài sản. 4.3. Đối với Tòa án nhân dân tối cao Chúng tôi cho rằng thực tiễn xét xử các tội xâm phạm sở hữu của ngành Tòa án nhân dân trong những năm qua là một kho tàng rất phong phú, đa dạng. Tuy nhiên các kinh nghiệm, các vướng mắc, các bất cập nảy sinh trong quá trình xét xử loại tội phạm này thì chưa được tổng kết, đánh giá sâu sắc, toàn diện. Để góp phần quan trọng vào việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện có tính toàn diện Bộ luật hình sự, trong đó có các tội xâm phạm sở hữu, chúng tôi kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao cần sớm tổ chức tổng kết thực tiễn áp dụng Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS và tổng kết việc áp dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT của các ngành tư pháp trung ương về các tội xâm phạm sở hữu.
                                                                                                                        Nguyễn Quang Lộc

Không có nhận xét nào: